Canh tân và sám hối
CANH TÂN VÀ SÁM HỐI
(CN. II. MV- A)
Bài Tin Mừng hôm nay (CN.II/MV-A – Mt 3, 1-12) trình thuật: Sau thời gian chay tịnh 40 ngày trong hoang địa, “Ông Gio-an Tẩy Giả rao giảng”. Nói đến Thánh Gio-an Tẩy Giả, không thể quên Lời khẳng định của Đức Giê-su: "Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông. Từ thời ông Gio-an Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được. Cho đến ông Gio-an, tất cả các ngôn sứ cũng như Lề Luật đều đã nói tiên tri. Và nếu anh em chịu tin lời tôi, thì ông Gio-an chính là Ê-li-a, người phải đến. Ai có tai thì nghe.” (Mt 11, 12-15). “Các môn đệ hỏi Đức Giê-su: "Vậy sao các kinh sư lại nói Ê-li-a phải đến trước?" Người đáp: "Ông Ê-li-a phải đến để chỉnh đốn mọi sự. Nhưng Thầy nói cho anh em biết: ông Ê-li-a đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử với ông theo ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như thế." Bấy giờ các môn đệ hiểu Người có ý nói về ông Gio-an Tẩy Giả.” (Mt 17, 10-13).
Điều đó cho thấy Thánh Gio-an Tẩy Giả là vị ngôn sứ nối Cựu Ước và Tân Ước. Ngài xuất hiện trước mọi người với sứ mạng dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Gio-an là vị ngôn sứ đặc biệt, thánh nhân được đánh giá như một Ê-li-a mới. Ngay từ trong lòng mẹ, ngài đã được thánh hiến cho Thiên Chúa và được tràn đầy Chúa Thánh Thần, như lời sứ thần truyền tin cho ông Da-ca-ri-a (thân phụ của thánh Gio-an Tẩy Giả): "Này ông Da-ca-ri-a, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gio-an. Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời. Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần. Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa." (Lc 1, 13-17).
Tuy nhiên, vì đức tính khiêm nhường, thánh Gio-an Tẩy Giả đã khẳng định mình không phải là Đức Ki-tô, cũng không phải là ngôn sứ Ê-li-a (“Và đây là lời chứng của ông Gio-an, khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông: "Ông là ai? " Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: "Tôi không phải là Đấng Ki-tô." Họ lại hỏi ông: "Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không?" Ông nói: "Không phải." - "Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?" Ông đáp: "Không". Họ liền nói với ông: "Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?" Ông nói: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.” Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pha-ri-sêu. Họ hỏi ông: "Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ?" Ông Gio-an trả lời: "Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người… Người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần." – Ga 1, 19-28.33).
Thánh Gio-an Tẩy Giả đã được Cựu Ước tiên báo là một nhân vật đi trước để dọn đường đón Đấng Cứu Thế. Ngài chính là người đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới: “Có tiếng hô: "Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho ĐỨC CHÚA, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu. Bấy giờ vinh quang ĐỨC CHÚA sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng ĐỨC CHÚA đã tuyên phán." (Is 40, 3-5). Ngài kêu gọi mọi người đến chịu phép rửa tỏ lòng ăn năn sám hối, nhưng khi thấy trong đám đông có những người thuộc nhóm Pha-ri-sêu và Xa-đốc thì ngài lại nổi nóng: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” (Mt 3, 7). Tuy đối với nhóm người Xa-đốc và Pha-ri-sêu thì rất đáng để nhận những lời ấy, vì họ quả thực là những “con rắn độc”; nhưng ở câu nói này, Thánh Gio-an Tiền Hô lại nói là họ muốn “trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa”. Vậy chẳng lẽ Thánh Gio-an đang dọn đường đón Đấng Thiên Sai đến để trút cơn thịnh nộ của Thiên Chúa hay sao?
Trước hết, thử tìm hiểu xem vì sao mà Thánh Gio-an lại nặng lời như vậy. Với đám đông thì khác hẳn, khi họ hỏi thánh nhân: "Chúng tôi phải làm gì đây?" thì ngài trả lời: "Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy", với những người thu thuế thì ngài bảo họ: "Đừng đòi hỏi gì quá mức đã ấn định cho các anh", còn với binh lính thì: "Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người ta, hãy an phận với số lương của mình." (Lc 3, 10-14). Chỉ riêng có đám người Pha-ri-sêu và Xa-đốc, Thánh Gio-an quá rõ họ đến xin ngài làm phép rửa chỉ là “cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống” thôi, chứ họ đâu có thực lòng sám hối. Họ coi phép rửa của Thánh Gio-an chỉ là một thứ nghi thức hay phù phép để tránh sự trừng phạt của Thiên Chúa, không hơn không kém. Cái kiểu đặt nặng hình thức bề ngoài vẫn là căn bệnh trầm kha của nhóm người tự cho mình là công chính!
Không những tự coi mình là người công chính, đám người Pha-ri-sêu và Xa-đốc còn tự phụ về gốc gác của họ là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Xét theo vỏ bọc, thì quả thực họ là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham, nhưng trong lòng họ đâu còn chút tinh thần nào của tổ phụ nữa! Vì thế, Thánh Gio-an mới nói thẳng: “Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: "Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham." Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham.” (Mt 3, 9). Tổ phụ Áp-ra-ham đã tin tưởng vào Thiên Chúa và những việc Người làm, nhất là đã hiểu và đã vui mừng vì hy vong được thấy ngày Con Thiên Chúa giáng trần cứu độ nhân loại (như chính Đức Giê-su đã khẳng định khi nhóm người này tự nhận là con của Áp-ra-ham: “Ông Áp-ra-ham là cha các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được thấy ngày của tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ.” – Ga 8, 56). Còn đám “con của Ap-ra-ham” thì nói Đức Giê-su là “người Sa-ma-ri bị quỷ ám”, rồi “lượm đá để ném Người” (Ga 8, 31-57). Thế đó!
Chính vì hiểu rõ tâm địa đám người Pha-ri-sêu và Xa-đốc chỉ muốn “trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa”, nên Thánh Gio-an Tẩy Giả mới gọi họ là “nòi rắn độc”. Tuy nhiên, sau khi nổi nóng, Thánh nhân đã đi thẳng vào vấn đề: “Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối”, và cảnh tỉnh đám “rắn độc” đó: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.” (Mt 3, 10). Nói với đám đông đến chịu phép rửa thì Thánh Gio-an đã rất ôn tồn; nhưng với đám người Pha-ri-sêu và Xa-đốc thì Thánh nhân đã “đi guốc ở trong lòng” (tục ngữ VN) họ rồi, nên ngài mới nổi nóng và thẳng thừng như vậy. Vấn đề đã sáng tỏ, tuy nhiên, vẫn còn đó vấn nạn: “Vậy chẳng lẽ Thánh Gio-an đang dọn đường đón Đấng Thiên Sai đến để trút cơn thịnh nộ của Thiên Chúa hay sao?” Xin cùng suy niệm:
Nhiều người thường nghĩ khi linh hồn lìa xác về trước Tòa Chúa và đặc biệt lúc sống lại sau hết, mọi người sẽ phải trình diện trước mặt Ðấng Chí Tôn để chịu phán xét. Đúng vậy, nhưng như thế không có nghĩa là Đấng Thiên Sai giáng thế lần đầu tiên chỉ để cứu độ, không phải để phán xét. Cả ngôn sứ I-sai-a và Thánh sử Gio-an đều không nghĩ như vậy. Theo các ngài, khi Ðấng Cứu Thế đến, dù là đến trong thế gian để làm công việc cứu chuộc, Người đã là Ðấng Thẩm Phán Chí Công rồi. Cụ già Si-mê-on chia sẻ quan niệm đó, khi ẵm kính Hài Nhi Giê-su đã cất tiếng loan báo: "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống (bị hư đi) hay đứng lên (được cứu rỗi).” (Lc 2, 34). Và thật sự hễ Ðức Ki-tô đến nơi nào là ở chỗ đó có người tin theo và có người chống đối. Giáo lý Người truyền ra tức khắc làm cho nhiều người tin nhận (“đứng lên”), nhưng cũng không ít kẻ nhạo báng chê cười (“ngã xuống”). Chỉ với 12 Tông đồ tiên khởi, Người đã khiến 11 người trở thành “những kẻ lưới người như lưới cá”, nhưng vẫn còn một Giu-đa It-ca-ri-ốt trở thành tên phản phúc. Đến ngay trên đỉnh Núi Sọ, dưới đất thì những người lành (Đức Mẹ, thánh Gio-an…) chen vai với những kẻ dữ (treo Người trên thập tự giá cho đến chết); và trên thập giá, cũng có một tên trộm lộng ngôn, đang khi người trộm khác được vào nơi an nghỉ.
Đức Giê-su đã từng khẳng định: “Ai nghe những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy, vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian.” (Ga 12, 47). Người đã nói như vậy mà cứ gọi Người là Đấng Xét Xử e có vẻ khiên cưỡng. Tuy nhiên, tiếp liền với lời dạy trên, thì Người lại tiếp: “Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan toà xét xử người ấy: chính lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết.” (Ga 12, 48). Người không xét xử, nhưng chính Lời Người “sẽ xét xử”, mà Đức Giê-su Ki-tô là Ngôi Lời nhập thể, nên Người và Lời chỉ là một. Điều đó cho thấy chính Người là Ðấng Xét Xử. Để hiểu rõ hơn, thì phải trở về nguyên ủy vấn đề. Vì tình yêu, Thiên Chúa dựng nên loài người và ban cho loài người được tự do. Chính cái quyền được tự do ấy đã làm cho con người sa ngã, bị tội lỗi thống trị. Vậy thì phải nói con người đã tự kết án mình vì không tuân giữ giới răn của Thiên Chúa. Mặc dù vậy, Thiên Chúa vẫn thương xót và cứu vớt (câu chuyện “Lụt Hồng Thủy” và mầu nhiệm “Ngôi Lời Giáng Thế”). Vậy thì Đức Ki-tô không xét xử, nhưng con người đã tự kết án mình khi không tuân giữ Lời Người.
Nói Đức Giê-su là Đấng Xét Xử chỉ là cách nói nhấn để cụ thể hóa vấn đề. Cũng như lời Thánh Gio-an Tẩy Giả: “Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi." (Mt 3, 11-12). Thánh sử Gio-an cũng trình thuật lời Đức Giê-su: “Quả thật, Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho Người Con mọi quyền xét xử” (Ga 5, 22). Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, Người chính là vị Thẩm Phán Tối Cao chí công vô tư. Duy có điều “Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo hèn trong xứ sở. Lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở, hơi miệng thở ra giết chết kẻ gian tà.” (Is 11, 3-4). Nói “Lời Người nói là cây roi” thì có khác gì chính Ngôi Lời dạy “chính lời tôi đã nói sẽ xét xử”. Rõ ràng Người là Ðấng Xét Xử, nhưng là Ðấng Xét Xử đầy Thánh Linh, mà Thánh Linh là tình yêu, nên sự Phán Xét của Người không giống như “tư tưởng loài người” vẫn nghĩ.
Cũng vì thế nên Thánh Gio-an Tẩy Giả mới kêu gọi người ta sám hối để được ơn tha tội. Ngay như với đám người Pha-ri-sêu và Xa-đốc, Thánh nhân cũng khuyên bảo “Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối”. Chỉ có “cây nào không sinh quả tốt” mới “bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3, 10) mà thôi. Một cách cụ thể, vì Thiên Chúa Cha đã “yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Vì Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” (Ga 3,16-17). Đức Ki-tô là hiện thân Tình Yêu của Chúa Cha gửi đến cho loài người một cách nhưng không. Còn loài người vì được tự do lựa chọn nên có thể đón nhận hoặc từ khước. Ai “sinh hoa quả tốt” thì được cứu độ, còn ai “không sinh hoa quả tốt” thì bị “chặt đi và quăng vào lửa” là điều tất nhiên.
Tóm lại, vấn đề đặt ra cho người Ki-tô hữu là đừng bao giờ chờ "nước đến chân mới nhảy", mà phải là sống trong một tư thế tỉnh thức và sẵn sàng đón Đấng Xét Xử. Hãy tự hỏi như những người đến chịu phép rửa tại sông Gio-đan đã hỏi Thánh Gio-an Tẩy Giả: "Chúng tôi phải làm gì?", và kiên quyết thực hành theo đúng lời dạy của Thánh nhân. Cứ kể lời dạy của thánh Gio-an Tẩy Giả cũng đơn giản thật: "Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy", đâu đã đến nỗi chỉ có một áo, hoặc chỉ có một chén cơm, mà phải nhường hết cho anh em, còn mình thì cởi trần, nhịn đói. Mà thậm chí, đến như kẻ thù đã đoạt áo ngoài thì cũng sẵn sàng nhường luôn áo trong cho nó ("Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong" – Lc 6, 29), hoặc như bà goá sẵn sàng "rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình" (Lc 21, 4). Ấy mới là biết dọn đường cho Chúa đến. Vâng, hãy mạnh dạn nhìn thẳng vào lòng mình, lấp cho đầy những thung lũng tị hiềm, bạt cho thấp mọi núi đồi kiêu căng, uốn cho ngay khúc quanh co hiểm ác, san cho phẳng những lồi lõm bất minh; tắt một lời, hãy sửa lối đi tâm hồn cho ngay thẳng, công chính. Có như vậy mới xứng đáng theo chân thánh Gio-an Tiền Hô mà gióng lên "tiếng hô trong sa mạc", tiếng hô trong hoang mạc cuộc đời.
Nói và diễn cho hết ý thì dài dòng văn tự, nhưng rút gọn lại chỉ cần nhấn mạnh điều mà Thánh GH Gio-an Phao-lô II trong suốt triều đại của ngài, đã đề ra và kêu mời tín hữu thực hiện, đó là "canh tân và sám hối". Để thực sự dọn dẹp con đường tâm linh cho ngay thẳng đón Cứu Chúa, thì cần phải đổi mới (canh tân) con người và ăn năn (sám hối) về những sai phạm thiếu sót của mình. ĐTC Phan-xi-cô cũng dạy: "Đức Chúa Giê-su Ki-tô có thể phá vỡ các mô hình nhàm chán mà chúng ta có ý giam hãm Người vào đó và Người làm chúng ta ngạc nhiên với óc sáng tạo thần linh không ngừng của Người. Mỗi khi chúng ta tìm cách trở về nguồn để lấy lại sự tươi mát ban đầu của Tin Mừng, thì những con đường mới, những phương pháp sáng tạo, các hình thức diễn tả khác, những dấu chỉ hùng hồn nhất, những lời nói đầy ý nghĩa mới mẻ cho thế giới ngày nay được nảy sinh. Thực ra, tất cả các hoạt động rao giảng Tin Mừng đích thực vẫn luôn luôn “mới mẻ.” (Tông huấn “Evangelii Gaudium – Niềm Vui của Tin Mừng” – số 11).
Muốn đổi mới con người, cuộc đời của mình, cần phải đổi mới cả phương cách dọn dep, tẩy uế con đường tâm linh để dọn đường đón chờ Chúa đến. Nói khác hơn, muốn đổi mới, cần phải biết nhìn lại mình mà sám hối và đổi mới luôn cả tư duy và hành động sám hối. Sám hối không phải là ngoẹo đầu méo miệng, đấm ngực thật mạnh, day tay vào mắt cho đỏ lên và chảy nước mắt ra; sám hối cũng không phải là hô khẩu hiệu, kêu gọi người khác ăn năn khóc lóc; mà phải là toàn tâm toàn ý đối diện với con người thực của mình, bóc trần mình ra trước thánh nhan Chúa để cầu xin được thứ tha mọi lỗi lầm thiếu sót, đồng thời cầu nguyện cho mình có đủ dũng khí và kiên tâm như một Gio-an Tẩy Giả đã sám hối trong sa mạc, rồi làm phép rửa và kêu gọi mọi người sám hối để ”dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (Mt 3, 3).
Sẽ có thật nhiều câu hỏi được đặt ra: "Anh có thực sự tin rằng Đấng Xét Xử đã đến, đang đến và sẽ đến với anh, với cả nhân loại không? Với những hiện tượng thiên nhiên và nhân sinh như hiện nay, anh có tin rằng Nước Chúa đã đến gần không? Anh có tin rằng "những sợi tóc trên đầu anh đã được đếm cả rồi" (Mt 10, 30), hay nói khác hơn, anh có tin rằng Chúa thấu suốt mọi điều tới tận chân tơ kẽ tóc con người của anh không? Nếu anh tin, thì đừng quanh co che giấu nữa, mà hãy ăn năn sám hối và đổi mới (“sám hối và canh tân”) cuộc đời của anh để chờ đón Chúa đến. Cụ thể nhất, nếu anh thực lòng tin, thì đừng chần chờ nữa, mà hãy hành động, bởi "Đức tin không có hành động là đức tin chết" (Gc 2, 17)". Vâng, hãy tỉnh thức và sẵn sàng hành động dọn đường chờ đón Chúa quang lâm. Ước được như vậy. Amen.
JM. Lam Thy ĐVD.
- Loại bài viết:
- Thể loại khác: