Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Bánh không men

Tác giả: 
JM. Lam Thy ĐVD.

 

 

BÁNH KHÔNG MEN

 

Đã bước vào Tuần Thánh, chuẩn bị cho cao điểm của Mùa Chay là Tam Nhật Vượt Qua. Mở đầu cho Tam Nhật Vượt Qua là Thứ Năm Tuần Thánh với Thánh lễ Tiệc Ly. Ba bài đọc trong Thánh lễ Tiệc Ly (chung cho cả chu kỳ ba năm Phụng vụ A-B-C) là: Xh 12, 1-8.11-14 (“Lễ Vượt Qua”); 1Cr 11, 23-26 (“Bí tích Thánh Thể”); Ga 13, 1-15 (“Bữa ăn cuối cùng của Đức Giê-su và các môn đệ”). Nói về Lễ Vượt Qua, cả 3 sách Tin Mừng (Mát-thêu, Mac-cô, Lu-ca) đều có nhắc đến việc “Chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua”  (Mt 26, 17 -19; Mc 14, 12 -16; Lc 22, 7-13). Theo Thánh sử Lu-ca thì: “Đã đến ngày lễ Bánh Không Men, ngày phải sát tế chiên Vượt Qua. Đức Giê-su sai ông Phê-rô với ông Gio-an đi và dặn: "Các anh hãy đi dọn cho chúng ta ăn lễ Vượt Qua.” (Lc 22, 7-8). Như vậy lễ Bánh Không Men gắn liền với lễ Vượt Qua. Xin dựa vào Bách khoa Toàn thư mở Wikipedia và Vatican.net để tìm hiểu vấn đề:

 

Lễ Vượt Qua của người Do-thái là ngày 14 tháng A-víb (khoảng tháng 3, tháng 4 dương lịch). Với thời gian này, một lễ khác có nguồn gốc riêng nhưng cùng được mừng chung trong mùa xuân và được sát nhập vào lễ Vượt Qua đó là lễ Bánh Không Men (Xh 12, 15-20). Trong tháng này, lễ Vượt Qua mừng ngày 14, còn lễ Bánh Không Men được ấn định từ ngày 15 đến ngày 21. Lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men có khi được mừng chung với nhau (Đnl 16, 1-8; 2Sb 30, 1-13); nhưng cũng có khi được mừng riêng (Lv 23, 5-8). Truyền thống người Do-thái áp dụng lễ này vào dịp kỷ niệm ngày dân It-ra-en thoát ách nô lệ, ra khỏi Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ, trở về Đất Hứa (“Ngươi sẽ giữ tục lệ mừng lễ Bánh Không Men: trong bảy ngày, ngươi sẽ ăn bánh không men vào thời chỉ định trong tháng A-víp, như Ta đã truyền cho ngươi, vì trong tháng đó ngươi đã ra khỏi Ai-cập. Người ta không được đi tay không đến trước nhan Ta.” – Xh 23, 15).

 

Theo định nghĩa của Thánh Kinh thì bánh không men được gọi là bánh khổ cực (“Anh em hãy giữ tháng A-víp và mừng lễ Vượt Qua kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, vì trong tháng A-víp, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đã đưa anh em ra khỏi Ai-cập ban đêm. Anh em hãy giết chiên dê và bò làm lễ vật Vượt Qua dâng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, ở nơi ĐỨC CHÚA chọn cho Danh Người ngự. Anh em không được ăn bánh có men với lễ vật đó; trong vòng bảy ngày, anh em sẽ ăn bánh không men - thứ bánh khổ cực, vì anh em đã phải vội vã ra khỏi đất Ai-cập, để mọi ngày trong đời anh em, anh em nhớ ngày ra khỏi đất Ai-cập.” – Đnl 16, 1-4). Bánh không men cũng tiêu biểu cho sự tinh tuyền và chân thật (“Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ.” – 1Cr 5, 7-8).

 

Đó là ý nghĩa nguyên thủy của lễ Bánh Không Men. Khi Đức Giê-su cùng các môn đệ chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua thì cũng là dịp kỷ niệm tuần lễ Bánh Không Men. Cũng vì đây là bữa ăn cuối cùng Đức Ki-tô dùng bữa với các môn đệ trước khi chính thức bước vào cuộc Thương Khó trong hành trình Vượt Qua tội lỗi và cái chết để đem lại sự sống vĩnh cửu cho nhân loại, nên Giáo hội tuyên xưng đây là bữa Tiệc Ly (nói nôm na là bữa tiệc chia tay giữa Chúa Ki-tô và các môn đệ). Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giê-su thiết lập bí tích Thánh Thể và đó chính là Bánh Không Men Giáo hội dùng trong Thánh lễ, bởi Thánh lễ không phải là bữa tiệc như những bữa tiệc khác cho nên dùng loại bánh đặc biệt nói lên tính chất đặc thù của bữa tiệc Thánh Thể. Bộ Giáo Luật hiện hành của Giáo Hội “Codex Iuris Canonici” (số 926) đã qui định: “Theo truyền thống lâu đời của Giáo Hội La-tinh, khi cử hành Thánh Thể bất cứ ở đâu, tư tế phải dùng bánh không men.”

 

Cũng giống như vấn đề Ăn Chay cần phải biết “đừng xé áo nhưng hãy xé lòng”, vấn đề đặt ra đối với người Ki-tô hữu khi suy niệm về lễ Bánh Không Men chính là tìm hiểu mục đích và ý nghĩa tiềm ẩn sâu xa trong đó:

 

1- Ý nghĩa tiềm ẩn của lễ Bánh Không Men: Ngay từ Cựu Ước, Lễ Bánh Không Men là chỉ thị của Thiên Chúa để nhắc nhở dân It-ra-en phải luôn ghi nhớ hồng ân được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập, vượt qua biển Đỏ trở về Đất Hứa; khi cử hành phải sát tế chiên Vượt Qua. Ngoài ý nghĩa dĩ vãng (Cựu Ước) đó, lễ Bánh Không Men còn tiềm ẩn dấu chỉ cho công cuộc cứu độ nhân loại trong tương lai (Tân Ước), nên phải công nhận một điều đây chính là nhiệm tích Thiên Chúa mạc khải cho con dân của Người. Và để thực hiện công trình cao vời khôn ví đó, Thiên Chúa đã sai Con Một xuống trần trong vai trò Con Chiên phải chịu sát tế để chuộc tội loài người và đem lại sự sống vĩnh cửu cho những kẻ tin. Lễ Bánh Không Men được thực hiện trong bữa Tiệc Ly trải dài trong Tam Nhật Vượt Qua với hy tế Thập Giá và mầu nhiệm Phục Sinh vinh hiển.

 

Kể từ bữa Tiệc Ly, Bánh Không Men chính là Thánh Thể – là Thịt và Máu Đức Giê-su –  là Bánh Hằng Sống (“Tôi là bánh trường sinh…Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống… Thật, tôi bảo thật: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, thì không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống… Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời." – Ga 6, 48-58)

 

Như vậy lễ Bánh Không Men đã trở thành một dấu chỉ cho một đời sống mới, không bị tội lỗi thống trị. Trong 7 ngày thực hiện lễ Bánh Không Men thì phải hiểu số 7 là số tiêu biểu cho sự trọn vẹn về thuộc linh (Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và con người trong bảy ngày). Bảy ngày tiêu biểu cho trọn cuộc đời của một người đi theo Chúa. Ngày nào cũng là tiếp nhận sự sống thánh khiết từ Thiên Chúa qua đức tin và trong Đức Giê-su Ki-tô. Sự ăn Bánh Không Men tiêu biểu cho sự tiếp nhận chính sự thánh khiết của Chúa Giê-su vào trong đời sống của con dân Chúa.

 

2- Mục đích của việc cử hành Lễ Bánh Không Men: Thánh Kinh Tân Ước giúp cho người tín hữu hiểu rõ mục đích và ý nghĩa của lễ Bánh Không Men: “Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy, Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ.” (1Cr 5, 7-8); “Anh em phải cố ăn ở hoà thuận với mọi người, phải gắng trở nên thánh thiện; vì không có sự thánh thiện, thì không ai sẽ được thấy Chúa.” (Dt 12, 14). Rõ ràng mục đích chính yếu của việc cử hành Lễ Bánh Không Men là để nhắc cho dân Chúa nhớ rằng, họ đã được giải thoát khỏi cuộc đời cũ nô lệ cho tội lỗi, và đã được Thiên Chúa dẫn vào cuộc đời mới, tự do trong thánh khiết, công chính, theo chân lý của Thiên Chúa. Trọn đời sống của họ phải luôn nên thánh, nếu không, họ sẽ không được Thiên Chúa tiếp nhận.

 

Tóm lại, người Ki-tô hữu cần phải nhìn lại mình để thấy được rằng con người sống trên đời thường bị các loại men tác động. Có thể kể ra những loại men đó như sau: men tôn giáo, men đạo đức giả, men tội lỗi.

 

* Men tôn giáo: Trước đây, đã 2 lần Đức Giê-su làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng đi theo Người. Sau đó, Người “bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh” (Mc 7, 31). Thánh sử Mat-thêu trình thuật về thời điểm này: “Khi sang bờ bên kia, các môn đệ quên đem bánh. Ðức Giê-su bảo các ông: "Anh em phải cẩn thận, phải coi chừng men Pha-ri-sêu và Xa-đốc". Các môn đệ nghĩ thầm rằng: "Tại chúng ta không đem bánh." Nhưng, biết thế, Đức Giê-su nói: "Sao anh em lại nghĩ đến chuyện không có bánh, người đâu mà kém tin vậy? Anh em chưa hiểu ư? Tại sao anh em không hiểu rằng Thầy chẳng có ý nói về bánh, khi Thầy nói: Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu và Xa-đốc?" Bấy giờ các ông mới hiểu là Người không bảo phải coi chừng men bánh, mà phải coi chừng giáo lý Pha-ri-sêu và Xa-đốc.” (Mt 16, 5-12).

 

Đức Giê-su đã phân biệt rach ròi về “men” theo 2 nghĩa (nghĩa đen – nghĩa chiểu tự : men bột ; nghĩa bóng – nghĩa thiêng liêng : men tôn giáo – giáo lý), để dạy các môn đệ hiểu rõ về giáo lý sai lầm của bọn kinh sư luật sĩ Pha-ri-sêu ("Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. "Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ…” – Mt 23, 23-25…). Điều đó cho thấy, cái men tôn giáo (là những giáo lý sai lầm) khi đã thấm nhập vào con người thì nguy hiểm như thế nào. Không chỉ ở thời điểm thượng cổ ấy, mà ngay trong thế giới hiện tại cũng không thiếu những thứ men tôn giáo vô cùng hiểm độc (khủng bố, đánh bom tự sát giết người hàng loạt sẽ được nên thánh tử vì đạo!!!)

 

* Men đạo đức giả: Tâm lý chung của con người luôn chuộng vẻ bề ngoài, thích mặc áo thầy tu hơn là cuộc sống đạo tu nhân tích đức. Họ đã quên mất một điều là: ”chiếc áo không làm nên thầy tu”. Tiêu biểu cho hạng người này là những kinh sư luật sĩ Pha-ri-sêu giả hình (“Bấy giờ, Đức Giê-su nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: "Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài.6 Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là "ráp-bi". (Mt 23, 1-7).

 

* Men tội lỗi: Không chỉ có thánh Gio-an Tẩy Giả gọi bọn Pha-ri-sêu là rắn độc, mà ngay cả Đức Giê-su cũng gọi họ như vậy: "Đồ mãng xà, nòi rắn độc kia! Các người trốn đâu cho khỏi hình phạt hoả ngục? Vì thế, này tôi sai ngôn sứ, hiền nhân và kinh sư đến cùng các người: các người sẽ giết và đóng đinh người này vào thập giá, đánh đòn người kia trong hội đường và lùng bắt họ từ thành này đến thành khác. Như vậy, máu của tất cả những người công chính đã đổ xuống đất, thì cũng đổ xuống đầu các người, từ máu ông A-ben, người công chính, đến máu ông Da-ca-ri-a, con ông Be-réc-gia, mà các người đã giết giữa đền thánh và bàn thờ. Tôi bảo thật các người: tất cả những tội ấy sẽ đổ xuống đầu thế hệ này.” (Mt 23, 33-36). Điều đó cho thấy trong con người luôn có “cốt cách của một thánh nhân cũng như của một tên đại bợm” (ngạn ngữ Tây phương). Cái men tội lỗi không chừa bất cứ một ai, chỉ có điều người ta có nhận ra nó hay không và khi nhận ra có biết ăn năn hối cải hay không mà thôi.

 

Ý thức được vấn đề, người Ki-tô hữu không chỉ mỗi năm một lần dự lễ Bánh Không Men theo nghi thức, mà là, mỗi ngày hãy sống đúng tinh thần của lễ Bánh Không Men: Luôn luôn giữ mình thánh khiết theo chân lý sụ thật của Lời Chúa; thánh khiết từ ý nghĩ, lời nói, đến việc làm. Mỗi ngày từ bỏ chính mình, để hoàn toàn sống cho Chúa, sống vì Chúa, sống trong Chúa, sẵn sàng chịu khổ vì danh Chúa. Vui hưởng sự tự do thoát khỏi quyền lực và hậu quả của tội lỗi, không còn mang vác gánh nặng của tội lỗi. Mong chờ ngày Sa-bát phước hạnh sau cùng, là ngày rời khỏi thế gian này, được diện kiến tôn nhan chính Bánh Không Men Hằng Sống là Đức Giê-su Ki-tô. Đặc biệt hơn nữa là hãy liên lỉ cầu nguyện sao cho tới ngày Đấng Cứu Độ quang lâm lần thứ hai, sẽ được đứng ở bên phải Người. Ước được như vậy.

 

Ôi! “Lạy Chúa, trong bữa Tiệc Ly trọng đại, trước ngày tự hiến thân chịu khổ hình, Ðức Giê-su đã trối cho Hội Thánh một hy lễ mới muôn đời tồn tại làm bằng chứng tình thương của Người. Chiều nay, chúng con đến tham dự yến tiệc cực thánh, như lời Người truyền dạy, xin Chúa cho tất cả chúng con được tràn đầy tình yêu và sức sống viên mãn của Người. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển tri cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Thánh lễ Tiệc Ly)

 

JM. Lam Thy ĐVD.