Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Đức tin: Lời đáp trả thích đáng

Tác giả: 
JM. Lam Thy ĐVD.

 

 

ĐỨC TIN: LỜI ĐÁP TRẢ THÍCH ĐÁNG (CN II.PS-A – CN LÒNG THƯƠNG XÓT)

 

Nói đến đức tin là nói đến vấn đề cốt tuỷ của tôn giáo. Bất cứ một tôn giáo nào cũng đều lấy đức tin làm trọng, bởi thế mới gọi những người theo tôn giáo ấy là tín hữu, tín đồ. Có tin thì mới yêu, có yêu thì mới theo và dốc một lòng vì tôn giáo mình tin theo để sống đạo một cách tốt lành, đó cũng là lẽ thường tình. Sách Giáo lý HTCG (số 142-143) đã khẳng định: "Nhờ mạc khải, ‘do tình yêu vô biên, Thiên Chúa vô hình ngỏ lời với con người như với bạn hữu. Người đối thoại với họ, để mời gọi cho họ hiệp thông với Người’ (Hiến chế về Mạc khải “Dei Verbum”, 2). Đức tin là lời đáp trả thích đáng của con người trước lời mời gọi của Thiên Chúa. Nhờ Đức Tin, con người đem tất cả trí khôn và ý chí của mình suy phục Thiên Chúa. Con người đặt trọn bản thân qui thuận Đấng mạc khải là Thiên Chúa (x. “Dei Verbum”, 5) : Thánh Kinh gọi cách đáp trả này là "sự vâng phục bằng Đức Tin" (x. Rm 1,5;16,26)”.

 

Tâm lý chung của con người chuyện gì cũng đòi phải được “trông thấy nhãn tiền” hoặc phải có chứng cớ xác thực, mới chịu tin. Không những thế, mà nhiều khi được thực mục sở thị, cũng vẫn còn có kẻ “không tin vào mắt mình”, mà lại đi tin vào những truyền thuyết hoang đường, những ma mị quỷ quái. Các Tông đồ (kể cả Tô-ma) cũng không ngoại lệ, các ông mới chỉ “nghe” thì chưa tin, mà còn phải được “thấy”, được “đụng vào” vật chứng mới tin. Và cũng chính cái tâm lý chỉ tin khi được “thực mục sở thị” đã đẻ ra tâm trạng hoài nghi. Thật vậy, chỉ vì được trông thấy nhãn tiền Thầy mình đã chết khổ nhục trên thập giá, đã được chính tay mình liệm xác Thầy và táng trong hang đá, thì làm sao tin được Thầy mình đã sống lại? Và vì thế nên khi thấy Thầy hiện ra thì “Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma” (Lc 24, 37). Ấy là chưa kể lúc Thầy còn sống và ở liền bên không rời một bước, vậy mà khi trông thấy nhãn tiền Thầy đi trên mặt biển đã vội hô hoán lên là “ma đấy!” (Mt 14, 22-33).

 

Cũng vì được thực mục sở thị nên sự kiện Chúa Giê-su Ki-tô bị bắt, chịu xét xử, bị kết án tử hình, chết treo thảm khốc trên thập giá, đã như một nỗi ám ảnh kinh hoàng tột đỉnh, khiến các môn đệ sợ hãi và tuyệt vọng. Không còn một tia hy vọng nào rọi vào tâm trí nữa. Tất cả là bóng tối và tảng đá liệm mồ Chúa đã trở nên như một tảng đá nặng nề khô cứng niêm kín tâm hồn họ. Đã bước sang ngày thứ ba kể từ khi Thầy tử nạn, các Tông đồ vẫn như đám gà con mất mẹ co cụm vào nhau; đến độ Chúa đã sống lại, hiện ra với bà Maria Mác-đa-la và sau đó là với 2 môn đệ trên đường Em-mau, bà và cả hai môn đệ này đã đi báo tin cho các môn đệ đang buồn bã khóc lóc, “Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin.” (Lc 24, 11). Với cái tâm trạng hoang mang, hoài nghi như vậy nên lần này “Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: "Bình an cho anh em!" Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma, khiến Người phải quở trách: "Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?" Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem.” (Lc 24, 36-43).

 

Lần hiện ra đó, Tô-ma không có mặt, nên khi nghe thuật lại, ông không tin. Ông nói thẳng thừng: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin." (Ga 20, 25). Nếu nói về trực tính (nói thật, nói thẳng) thì Tô-ma cũng chẳng thua gì Phê-rô. Phê-rô không những không tin mà còn coi Thầy là ma, thì Tô-ma đòi xỏ ngón tay vào lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn Thầy, cũng là lẽ thường tình. Thực ra, đâu chỉ có Phê-rô và Tô-ma, mà vẫn còn cảnh “Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi.” (Mt 28, 16), khiến “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy.” (Mc 16 14). Theo thường tình thế sự, chưa được trông thấy nhãn tiền thì chưa tin, điều đó không đáng trách, chỉ đáng trách khi đã được thực mục sở thị mà vẫn chưa tin. Thánh Tô-ma khi được kêu xỏ ngón tay vào lỗ đinh và đặt bàn tay vào cạnh sườn Thầy, thì ngay lập tức đã hoàn toàn xác tín bẳng lời nói xuất phát tự tâm can: “Lạy Chúa con! Lạy Thiên Chúa của con!”

 

Với Thánh Tô-ma thì "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin” (Ga 20, 29), nhưng còn những Ki-tô hữu sống xa các ngài 20 thế kỷ thì sao? Các tín hữu ngày nay tuy được mang tước hiệu Ki-tô hữu (bạn của Chúa Ki-tô), nhưng xem ra còn thê thảm hơn các môn đệ thủa xưa. Vẫn còn không ít người tin vào thần nhà thần bếp, thần cây đa cây đề, thần sông thần núi, thần sấm thần chớp, thần năm tuổi, thần hộ mệnh nọ kia… Và nếu có tin vào Đấng Ki-tô thì chỉ là tin trên môi trên miệng, chỉ cần sợ bóng sợ vía đã vội vàng “chối Thầy không chỉ ba lần mà có thể lên tới ba mươi lần ba” bằng cách cất bàn thờ vào một xó xỉnh nào đó để chưng hình lãnh tụ, khai vào lý lịch là không tôn giáo, theo đạo thờ ông bà v.v…và v.v… Chính vì thế, vấn đề thiết thân đặt ra luôn luôn và mãi mãi vẫn là củng cố đức tin, không thể khác hơn.

 

Tóm lại, hãy lắng nghe và để cho Lời Chúa thấm tận đáy lòng: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin!” Ấy cũng bởi vì: “Phúc thay những người không thấy mà tin!" Dù người tín hữu ngày hôm nay không trực tiếp được “thực mục sở thị” mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh, nhưng biết bao nhiêu chứng nhân (từ các Tông đồ tiên khởi, các Thánh sử đến các vị Hiển Thánh, nhất là các Thánh Tử Vì Đạo) cùng với không ít chứng tá đã minh họa cho mầu nhiệm cao vời khôn ví đó. Mầu nhiệm đó chính là “Lòng Thương Xót Chúa” trải dài theo lịch sử loài người, từ “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người… Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời." (Lc 1, 50-54).

 

Muốn được hưởng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa cách viên mãn, thì không gì bằng chạy đến với Đức Mẹ Lòng Thương Xót (“Như vậy Đức Maria là người biết thấu đáo hơn cả về mầu nhiệm lòng Thiên Chúa thương xót. Người biết giá của mầu nhiệm ấy và biết nó lớn lao biết chừng nào. Trong ý nghĩa ấy, chúng ta cũng gọi người là Mẹ của lòng thương xót: Đức Bà có lòng thương xót hay Đức Mẹ của lòng Thiên Chúa thương xót; mỗi tước hiệu này đều có một ý nghĩa thần học sâu sắc, bởi vì đều nói lên việc tâm hồn và tất cả con người Đức Mẹ đã được chuẩn bị đặc biệt để người có thể trước tiên, thông qua các biến cố phức tạp của Israel rồi thông qua các biến cố liên quan tới mọi người và toàn thể nhân loại mà thấy được lòng thương xót, ai ai cũng được hưởng phần “suốt đời nọ đến đời kia” theo ý định đời đời của Ba Ngôi Chí Thánh.” – Thông điệp “Thiên Chúa Giàu Lòng Thương Xót – Dives In Misericordia”, số 9).

 

Người Ki-tô hữu ngày hôm nay còn đợi chờ gì nữa mà không cất cao lời tuyên xưng: “Lạy Chúa! Con tin tưởng nơi Ngài” như Thánh nữ Faustina (1905-1938). Song song với lời tuyên xưng đức tin đó, hãy cầu nguyện với Đức Mẹ Lòng Thương Xót, xin Mẹ dạy dỗ, che chở, cầu bầu, để “Nhờ Mẹ, con đến với Chúa – Ad Jesum per Mariam”. Ôi! “Lạy Chúa! Con tin tưởng nơi Ngài. Lạy Mẹ Maria rất thánh, Mẹ Sầu Bi của chúng con, xin dạy chúng con nhận biết giá trị của thánh giá trong đời sống chúng con, để bất cứ những gì đang thiếu vắng sự đau khổ của Chúa Kitô chúng con có thể lấp đầy thân xác của chúng con cho nhiệm thể của Chúa, chính là Giáo hội của Chúa. Và khi hành trình của chúng con nơi dương thế chấm dứt, chúng con sẽ được sống vĩnh cửu với Mẹ trên Nước Trời. Amen.” (Kinh Cầu Cùng Đức Mẹ Kibeho – Đức Mẹ Lòng Thương Xót).

 

JM. Lam Thy ĐVD.