Tình yêu rực cháy trong tim
TÌNH YÊU RỰC CHÁY TRONG TIM (CN VI.PS-B)
Bình thường, khi dạy dỗ các môn đệ, Đức Ki-tô chỉ nhắc nhở là: "Đừng…"; "Chớ…" hoặc khuyên bảo là "Hãy…"; "Nên…" (ví dụ: “Khi anh cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Ðừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin.” – Mt 6, 6-8; “Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” – Mt 10, 8; "Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” – Mt 18, 10).
Tuy nhiên, trong bài Tin Mừng hôm nay (CN VI.PS-B – Ga 15, 9-17), Đức Ki-tô lại nói đó là điều răn: "Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 15, 12). Người không chỉ khuyên bảo, nhắc nhở, dạy dỗ các môn đệ một cách bình thường, mà Người nhấn mạnh "Đây là điều răn của Thầy" (Điều răn là những lời dạy dỗ có tính răn đe như những điều luật; sống và làm theo thì sẽ được thưởng, nhưng từ chối không làm thì bị trách phạt. Vd: Mười điều răn là 10 điều căn bản về luật pháp mà Thiên Chúa ban cho dân Do Thái và loài người, bao gồm: 3 điều nói về bổn phận con người đối với Thiên Chúa + 7 điều nói về bổn phận con người đối với nhau). Mới thoạt nghe nói tới "điều răn", tưởng chừng như Đức Ki-tô lần này sẽ "thiết quân luật" một cách khắt khe, nhưng thật không ngờ Thầy Chí Thánh lại nói đến “Luật Yêu Thương”. Thử tìm hiểu xem “Luật Yêu Thương” của Đức Giê-su là gì ?
Vấn đề yêu thương anh em, yêu thương đồng loai đã đươc rất nhiều những vị thầy, những vị thức giả như tiên tri, ngôn sứ… dạy, và cùng lắm thì cũng chỉ khuyên: “yêu thương anh em, đồng loại như yêu chính bản thân mình” (“ái nhân như ái thân” – Khổng Tử). Nếu chỉ đọc lướt qua Lời dạy của Đức Ki-tô, có lẽ ai cũng chỉ cho Người dạy môn đệ cũng như bao bậc vĩ nhân, thánh nhân khác; nhưng nếu chú tâm sẽ thấy Lời dạy của Người có khác. Tại sao lại thế? Vì Người dạy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”, mà muốn yêu thương nhau như Thầy yêu thương mình thì phải tìm hiểu cho thật cặn kẽ xem Thầy đã yêu thương mình như thế nào?
Mấu chốt vấn đề chính ở điểm này, bởi khi tìm hiểu thật kỹ tình yêu Thầy đã dành cho loài người, sẽ thấy Thầy không chỉ yêu thương loài người như yêu chính bản thân, mà còn yêu thương hơn cả bản thân Thầy nữa. Đó là yêu thương đến độ hy sinh cả tính mạng cho người mình yêu (“Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” – Ga 15, 13). Rõ ràng Đức Giê-su Ki-tô không chỉ khuyên bảo hãy yêu thương nhau một cách chung chung, mà Người còn lấy chính bản thân Người làm tấm gương để các môn đệ nhận thức được Tình Yêu Thiên Chúa cao cả đến mức độ nào. Và từ đó, Người khẳng định “Đây là điều răn của Thầy”. Quả thực, với bản tính con người mà muốn yêu thương tha nhân như yêu thương chính mình đã thấy khó khăn, chớ đừng nói là yêu thương người khác hơn cả yêu thương bản thân; thậm chí yêu thương đồng loại đến mức hy sinh cả tính mạng mình thì đúng là thiên nan vạn nan.
Tình yêu thật sự sẽ như một mồi lửa có thể lan truyền từ người nọ sang người kia và cuối cùng biến trần gian này thành Nước Trời. Chính Đức Giê-su đã mong ước lửa tình yêu mà Ngài đã đem đến trái đất lan truyền đến mọi người và bùng cháy lên (“Thầy đã đem lửa đến trần gian, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” – Lc 12, 49). Nói cho rõ hơn thì lửa chính là Chúa Thánh Thần – ngọn Lửa Mến thần thiêng – như Giáo Lý HTCG (số 696) giải thích: “Truyền thống linh đạo giữ lại biểu tượng lửa như một trong những biểu tượng diễn tả đúng nhất về tác động của Thánh Thần (x. T. Gio-an Thánh Giá,): "Anh em đừng dập tắt Thánh Thần" (1Tx 5, 19).” Ngọn lửa Chúa Thánh Thần đã đem lại “sự sống, sự sống lại và là sự sống mới” cho các Tông đồ, cho các tín hữu. Thật sự chỉ có ngọn Lửa Mến Thánh Linh mới hồi phục, đưa người tín hữu vào sự sống mới trong Đức Ki-tô.
Nói đến yêu thương thì không thể không nghĩ tới 2 hạng người: Có rất nhiều người yêu thương đồng loại bằng tất cả con người của mình trong hoạt động và cuộc sống (điển hình như Mẹ Thánh Tê-rê-sa Calcutta); nhưng cũng không thiếu cảnh yêu thương trên môi miệng (“Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm.” – 1Ga 3, 18). Vâng, và vì thế muốn “yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em” thì điều kiện cần có và đủ phải là sống và làm được như Thầy Chí Thánh trong sứ vụ của Người. Khó thật đấy, nhưng không phải là không làm được nếu có đầy đủ ý chí và quyết tâm, vì “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông.” (Nguyễn Bá Học).
Hãy nhìn vào gương sống và hoạt động của các thánh (nói chung) và nhất là các Thánh Tử vì Đạo, rồi tự đặt câu hỏi: “Các ngài cũng người trần mắt thịt như mọi người trên thế gian này, vậy mà tại sao các ngài lại gặt hái được vinh quang tột đỉnh như thế?” Hỏi tức là trả lời rồi vậy, bởi vì hơn ai hết, các ngài đã thấu triệt được vấn đề “Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta” (Rm 5, 6; Ep 5, 2; 1Ga 3, 16). “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4, 11); “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4, 19); “Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em.” (1Ga 3, 16).
Tất cả mọi Ki-tô hữu (giáo sĩ + giáo dân) kể từ khi được đón nhận phép Thánh Tẩy thì đã được tham dự vào 3 chức vụ của Chúa Giê-su (Tư tế, Ngôn sứ, Vương giả). Như vậy, với 3 chức vụ ấy, mỗi Ki-tô hữu đều có nhiệm vụ “Phúc Âm hoá” đời sống bản thân, gia đình và xã hội. Một cách cụ thể là làm chứng nhân sống cho Đức Giê-su Ki-tô Phục Sinh, đem Tin Mừng Cứu Độ đến cho mọi người. Để sống xứng đáng với phẩm giá cao quí ấy, không gì bằng thực hiện chính bản tính Thiên Chúa mà Người đã chia sẻ hay thông phần cho tất cả và cho từng mỗi Ki-tô hữu (“Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, là cho anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa.” – 2Pr 1, 4). Mà điều cốt yếu trong bản tính Thiên Chúa chính là tình yêu: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4, 8.16).
Sống yêu thương – yêu Thiên Chúa và tha nhân – là sống xứng đáng với phẩm giá của con người bằng cách thể hiện cụ thể mình chính là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa. Đó cũng là điều mà con người cần thiết phải làm để được cứu rỗi. Cũng vì thế, Đức Giê-su Ki-tô chỉ truyền dạy cho con người một giới luật duy nhất là yêu thương nhau: “Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 13, 34-35; 15, 12-17; 1Ga 3, 23; 2Ga 1, 5). Và vào ngày cánh chung, Thiên Chúa cũng chỉ căn cứ vào điều duy nhất ấy để thẩm định, phán xét công tội loài người (Mt 25, 31-46).
Ấy cũng bởi vì “Cho con một điều răn mới yêu thương luật Chúa muôn đời. Cho con một lời dấu yêu, con ơi hãy yêu mến nhau. Theo gương Thầy yêu thương trước, hy sinh mà hiến thân mình. Hy sinh vì người dấu yêu, liều cả tấm thân tình yêu chính nhân. ÐK: Yêu thương là điều răn mới, anh em hãy mến yêu nhau; Yêu thương người ta sẽ biết, anh em là môn đệ Thầy.” (“Luật Yêu thương” – TCCĐ).
Ôi! Lạy Chúa! Xin cho chúng con biết nhận ra gương mặt của Chúa nơi tha nhân, để chúng con yêu thương họ như Chúa đã yêu thương chúng con. Cúi xin Chúa thương ban Thánh Thần cho chúng con, để chúng con biết thực hành trước những điều mà chúng con sẽ chia sẻ với anh em, bây giờ và mãi mãi. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen. Alleluia! Alleluia!
JM. Lam Thy ĐVD.
- Loại bài viết:
- Thể loại khác: