Thầy đi đâu?
THẦY ĐI ĐÂU? (QUO VADIS?)
(CN VII.PS-B – CHÚA THĂNG THIÊN)
Suy niệm Lời Chúa lễ Chúa thăng thiên (CN VII.PS-B: Cv 1, 1-11; Ep 1, 17-23. Mc 16, 15-20), thấy tình hình các môn đệ bộc lộ tinh thần hoang mang lo lắng, cứ “đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi” (Cv 1, 10). Tâm trạng băn khoăn đó khiến kẻ viết bài này bỗng nhớ lại bữa Tiệc Ly, khi Đức Giê-su nói với các môn đệ về vấn đề Người phải chịu khổ hình chết treo trên thập giá đến ngày thứ ba thì sống lại và đi về với Chúa Cha trên thiên quốc. Không chỉ người Do Thái thắc mắc và được Đức Ki-tô trả lời “Nơi tôi đi, các người không thể đến được”; mà còn khiến ông Phê-rô tò mò: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?" Đức Giê-su trả lời: "Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được; nhưng sau này anh sẽ đi theo." (Ga 13, 33-36).
Lời tiên báo của Đức Giê-su đã trở thành hiện thưc: Tháng 8 năm 64, hoàng đế Nero bắt đầu bách hại Đạo Chúa, Phê-rô bị bắt và bị kết án đóng đinh ở Rô-ma. Vào khoảng tháng 10/64, đang khi chạy trốn để tránh khỏi nhục hình, ngài đã gặp Chúa Giê-su và hỏi: "Lạy Chúa, Chúa đi đâu?" ("Quo vadis, Domine?"), Chúa Giê-su trả lời: "Thầy vào thành Rô-ma để chịu đóng đinh một lần nữa"). Hiểu được ẩn ý của Chúa, Phê-rô đã quay trở lại thành Rô-ma để chịu kết án (chịu hình phạt “đóng đinh ngược” và tử nạn vào khoảng tháng 12/64 – Giáo hội ấn định lễ kính vào ngày 28/12; mãi tới năm 248, Giáo hội quyết định chính thức lễ kính 2 thánh Phê-rô và Phao-lô vào ngày 29/6).
Tâm trạng Thánh Phê-rô cũng là tâm trạng chung của các Tông đồ và rộng ra là của các Ki-tô hữu, của loài người. Nếu có khác chăng là khác ở cách ứng xử. Như Thánh Tô-ma thì cũng dịp này ngài hỏi lại Đức Giê-su: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?" (Ga 14, 5); nhưng đến sau Phục Sinh, ông vẫn không tin Thầy mình đã sống lại (“nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không có tin” – Ga 20, 25), chỉ đến tám ngày sau đó, Người hiện ra và nói: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." (Ga 20, 27), Tô-ma mới thực sự tin. Riêng Thánh Phê-rô tuy có hay thắc mắc, nhưng khác người ở một điểm là trong lòng nghĩ sao thì nói ra như vậy, không hề giấu giếm, che đậy. Và nhất là khi được Thầy giải thích thì ngay lập tức Thánh Phê-rô tin tưởng và làm theo Lời dạy của Người.
Xin được trở lại với các bài đọc hôm nay: Bài đoc 1 (Cv 1, 1-11) tường thuật mầu nhiệm thăng thiên: Đức Giê-su Ki-tô dặn bảo các Tông đồ xong, thì Người được cất lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Tâm trạng các môn đệ hẳn nhiên là hoang mang lo sợ, bởi Người Thầy – mà cho đến giờ phút này các ông vẫn còn bán tín bán nghi ("Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi" – Mt 28, 17) – lại một lần nữa nói một cách khó hiểu. Vừa mới nói “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế", thì ngay lập tức "Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa." Cái mâu thuẫn của hiện tượng này khiến các Tông đồ cứ mải miết “đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi”.
Tâm lý thông thường của con người là vậy, cũng chẳng có gì đáng trách. Sống bằng và sống với giác quan: phải nhìn thấy tỏ tường (thị giác), nghe thấy rõ ràng (thính giác), sờ mó cầm nắm được (xúc giác), biết được mặn nhạt (vị giác), ngửi được mùi hương (khứu giác). Do đó, Thầy vừa nói Thầy sẽ ở với mình cho đến ngày tận thế, thì ngay sau đó Thầy lại đi mất hút, bảo sao khỏi ngỡ ngàng, hụt hẫng, nếu không muốn nói là lo sợ, đau đớn, buồn rầu. Chính vì thế nên các ngài chỉ lo nhìn theo bóng Thầy, với tâm trạng vừa hoài nghi, vừa chán nản, chẳng còn tin tưởng vào đâu đựoc nữa. Niềm tin lại một lần nữa bị thử thách, quên mất những điều Thầy vừa truyền dạy. Cũng vì biết rõ con người là thế, nên Thiên Chúa đã phải sai thiên sứ đến cảnh tỉnh: "Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời." (Cv 1, 11).
Người đời vẫn thường nói: Có tin thì mới theo và có theo thì mới biết tỏ tường để niềm tin được củng cố vững vàng hơn. Các Tông đồ đã tin vào Đức Giê-su Ki-tô nên khi được mời gọi thì lập tức đi theo, bỏ cả cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp. Cứ nhìn vào hình ảnh anh chàng thanh niên giàu có, thì đủ hiểu đức tin quan trọng như thế nào. Anh ta muốn theo Đức Ki-tô, nhưng vì vẫn chưa tin tưởng cho lắm nên khi nghe Người bảo về bán hết của cải chia cho người nghèo thì ỉu xìu như mèo bị cắt tai, bỏ đi một nước. Và vì thế “Đức Giê-su nói với các môn đệ của Người: "Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa." (Mt 19, 16-24).
Đến như các Tông đồ đã tin mới đi theo Thầy, vậy mà ròng rã 3 năm theo Thầy đi khắp đó đây, chứng kiến biết bao nhiêu việc làm và nhất là những phép lạ chứng tỏ Thầy là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, thậm chí còn tuyên xưng, còn đấm ngực thề không chối Thầy, vậy nhưng đến cơn thử thách thì lại hoài nghi, lại nửa tin nửa ngờ, lại chối Thầy tới 3 lần trong một đêm (Mc 14, 66-71). Hoá cho nên mới có vụ một Tô-ma khi nghe Thầy nói: “Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi” thì thắc mắc liền: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?" (Ga 14, 4-5). Thêm một Phi-líp-phê đặt một câu hỏi bộc lộ rõ tâm trạng chưa tin tưởng Thầy mình là Con Thiên Chúa, nên khi nghe Thầy nói: "Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người." Phi-líp-phê mới thưa: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện." (Ga 14, 6-7).
Ở Việt Nam xưa có câu “nhìn lên chẳng bằng ai, nhìn xuống cũng còn chán vạn kẻ không bằng mình”, ý nói nhìn lên thì thấy thua kém nhiều người dễ sinh thất vọng, nhưng nhìn xuống thì lại được an ủi vì thấy còn nhiều người thua kém mình. Nòi cách khác, đây là một châm ngôn sống: Có nhìn lên thì cũng cần nhìn xuống. Nhìn lên thấy thua kém sẽ hun đúc chí tiến thủ (chớ đừng thất vọng), nhìn xuống để mà sống (tránh khỏi thất vọng). Nhưng nếu cứ nhìn lên hoài thì chắc chắn từ thất vọng sẽ đi tới tuyệt vọng, hết sống nổi; mà giả thử cứ nhìn xuống không thôi, thì sẽ trở thành tự kiêu tự mãn, rồi cũng không thoát khỏi tội đầu tiên trong 7 mối tội đầu (kiêu ngạo). Trường hợp các Tông đồ cứ mải miết nhìn lên mãi với nỗi thất vọng Thầy đã bỏ đi, thì liệu các ngài sẽ ra sao? Thiên sứ đã can thiệp đúng lúc, nhắc nhở các ngài đừng nhìn lên trời nữa mà hãy nhìn xuống (nơi các ngài đứng là trên đỉnh núi), để thấy được còn biết bao nhiêu sinh linh đang trông chờ được như các ngài (một cách khéo léo nhắc nhở các ngài nhớ lại Lời Thầy truyền dạy mà đến với muôn dân).
Rõ ràng là Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta đã hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, Người được cất lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, nhưng như thế không có nghĩa là Người rời bỏ các môn đệ – những bạn hữu của Người – mà là “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Nghe Lời dạy này, không phải chỉ các Tông đồ tiên khởi nghĩ rằng Chúa Giê-su sẽ ở cùng các ngài một cách cụ thể như thời gian trước khi bước vào cuộc khổ nạn; mà ngay đến cả chúng ta hiện nay cũng vẫn cho rằng đó chỉ là lời an ủi suông. Chúng ta đã quên mất một điều là khi suy niệm về Thánh Kinh, cần chú ý đến cả hai phương diện: “nghĩa chiểu tự” và “nghĩa thiêng liêng”. Trong “nghĩa thiêng liêng” lại cần chú ý đến “nghĩa ẩn dụ”, “nghĩa luân lý” và “nghĩa loại suy” (xc. Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini” " (1).
Vâng, hãy nhìn lên dõi theo con đường Giê-su, cố gắng hiểu cho được việc làm của Đức Ki-tô (nghĩa chiểu tự: biến cố “thăng thiên”); để từ đó tin vào mầu nhiệm cứu chuộc (nghĩa ẩn dụ) qua Lời Chúa: "Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi." (Ga 14, 1-4). Và hãy nhìn xuống bản thân mình cùng với anh em mình để mà thực thi sứ vụ do chính Người Thầy Chí Thánh truyền dạy trước khi về trời (nghĩa luân lý). Chỉ có như thế mới mong vươn tới cứu cánh Nước Trời (nghĩa loại suy) là mục đích cuối cùng của hành trình thực thi sứ vụ một Ki-tô hữu.
Tuy nhiên, cũng rất cần phải ghi nhớ lời dạy của ĐGH Bê-nê-đic-tô XVI: “Như thế, muốn tái khám phá hành động qua lại giữa các nghĩa khác nhau của Sách Thánh, điều chủ yếu là phải nắm chắc việc bước từ chữ viết qua tinh thần. Đây không phải là một bước tự động, tự phát; đúng hơn, cần phải vượt quá (transcended) chữ viết: “lời Chúa không bao giờ đơn thuần là một với chữ viết trong bản văn. Muốn nắm được lời của Người, phải có một sự vượt quá (chữ viết) và một diễn trình tìm hiểu, được hướng dẫn bởi chuyển động bên trong của toàn bộ tác phẩm, và do đó, phải trở thành một diễn trình sống.” (“Tông huấn Lời Chúa”, mục “Cần phải vượt quá “chữ viết”). Như vậy, có thể nói mầu nhiệm thăng thiên nhắc nhở mọi Ki-tô hữu 2 điều: 1- Chúa Giê-su về trời – 2- Chúng ta phải làm sao để được về trời với Chúa, vì đấy mới là quê hương đích thực. Vâng, hãy nhìn lên và cầu nguyện để hiểu được mầu nhiệm thăng thiên, và hãy nhìn xuống để sống Lời Chúa cách cụ thể với mục đích tối hậu là chiếm hữu và giúp anh em cùng chiếm hữu Nước Trời. Ước được như vậy.
Ôi! Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho cộng đoàn chúng con biết hoan hỉ vui mừng mà dâng lời cảm tạ, vì hôm nay, Con Một Chúa đã lên trời vinh hiển. Là Thủ lãnh, Người đã đi trước mở đường dẫn chúng con vào Nước Chúa khiến chúng con là những chi thể của Người nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thủa muôn đời. Amen.
JM. Lam Thy ĐVD.
---------------------------------
Chú thích: (1) Tông huấn Lời Chúa “Verbum Domini”, PHẦN MỘT: LỜI CHÚA – Mục “Nghĩa chiểu tự và nghĩa thiêng liêng” (số 37) đã giải thích rõ ràng: "Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng thời các giáo phụ và thời trung cổ, mọi hình thức chú giải, kể cả hình thức chiểu tự, cũng đều được tiến hành trên căn bản đức tin, mà không nhất thiết phải phân biệt giữa nghĩa chiểu tự và nghĩa thiêng liêng. Về phương diện này, người ta có thể nhắc tới 2 câu thơ trung cổ diễn tả mối tương quan giữa các nghĩa khác nhau của Sách Thánh: "Littera gesta docet, quid credas allegoria,/ Moralis quid agas, quo tendas anagogia" (Chữ đen nói tới việc làm; Ẩn dụ nói về đức tin; Luân lý nói tới hành động; Loại suy nói về số phận ta).” (xc thêm GL/HTCG số 115, 116 và 117).
- Loại bài viết:
- Thể loại khác: