Đức tin và hành động
ĐỨC TIN VÀ HÀNH ĐỘNG (CN XXIV/TN-B)
Trong khi đi chia sẻ tại các Huynh đoàn Đa Minh trên toàn quốc, kẻ viết bài này rất hay bị “chiếu bí” bằng những câu hỏi “hóc búa” rất khó trả lời. Có một thắc mắc của học viên được hỏi khá nhiều lần, đó là: “Tại sao Con Thiên Chúa giáng trần lại được đặt tên là Giê-su Ki-tô? Tên đó có ý nghĩa thế nào? Tại sao Ki-tô giáo còn được gọi là Cơ Đốc giáo?” Truy tìm trên wikipedia thì thấy giải thích:
Giê-su cũng được gọi là Giê-su Ki-tô, Jesus Christ, hay Gia-tô Cơ-đốc. Giê-su là người Do Thái có tên là Yehoshua (יהושע - có nghĩa là "Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ" trong tiếng Hebrew), thường được gọi vắn tắt là Yeshua (ישוע). Đối với người đương thời, Giê-su còn được biết dưới tên Giê-su thành Nazareth, hoặc Giê-su con ông Giu-se. Từ "Ki-tô" (tiếng La-tinh: Christus; tiếng Hy Lạp: Χριστός Khristós hoặc từ "Cơ-đốc" trong tiếng Việt), là một danh hiệu của Chúa Giê-su, có nghĩa là "người được xức dầu", ngụ ý là một vị lãnh đạo (chính trị cũng như tôn giáo) được chọn bởi Thiên Chúa.
Sở dĩ người Do Thái gọi Đức Giê-su là “Đấng Được Xức Dầu” là vì theo truyền thống Do Thái, các vua chúa được xức dầu phong vương (“Ông Sa-mu-en lấy lọ dầu và đổ trên đầu ông Sa-un, rồi hôn ông và nói : "Chẳng phải ĐỨC CHÚA đã xức dầu tấn phong ông làm người lãnh đạo cơ nghiệp của Người sao?” – 1Sm 10, 1), các Thày Cả Thượng Phẩm cũng được xức dầu (“Ngươi sẽ lấy dầu tấn phong mà đổ trên đầu A-ha-ron và xức dầu cho ông.” – Xh 29, 7). Người Do Thái quan niệm Đấng Ki-tô là vị “Vua” trong tương lai. Người sẽ đến trong uy quyền để đổi mới mọi sự, để phục hồi lại nước Israel (Đn 9, 25-26), giải phóng dân tộc Do Thái khỏi mọi áp bức, và đưa dân Chúa tiến lên trong vinh quang. Như vậy, Đấng mà “muôn dân mong đợi” đã đến trong trần gian, tên Ngài được gọi là Giê-su, cùng với danh hiệu Ki-tô ghép lại thành Giê-su Ki-tô.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXIV/TN-B – Mc 8, 27-35) trình thuật việc Ðức Giê-su đang đi với các môn đệ ở vùng Xê-da-rê thuộc Phi-lip-phê, tức là miền cực Bắc nước Do Thái, nơi bắt nguồn của dòng sông Gio-đan. Người ta gọi nơi này là Xê-da-rê của Phi-lip-phê, vì chính Hê-rô-đê Phi-lip đã xây ở đây một thành mang tên Xê-da-rê (tên của hoàng đế Rô-ma). Do đó, đặt chân đến chốn này, ai cũng phải nghĩ tới hoàng đế và uy quyền thống trị của ông. Và từ đó, người ta cũng hay nghĩ đến thân phận của mình. Có lẽ vì thế mà khi tới vùng này, Ðức Giê-su đã quay sang hỏi các môn đệ: "Người ta nói Thầy là ai?"
Dư luận về Đức Ki-tô kể ra đã khá rõ rệt. Ai ai cũng nghĩ Người là bậc xuất chúng, tối thiểu cũng như Gio-an Tẩy giả, hoặc như Ê-li-a, hay một vị ngôn sứ nào đó. Vì thế các môn đệ trả lời: "Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó." Còn đối với các môn đệ thì vì họ là học trò thân tín của Đức Giê-su, luôn ở với Người và được Người chăm sóc, dạy dỗ, rồi còn được chứng kiến biết bao phép lạ Người đã làm, tất nhiên họ phải có một cái nhìn về Người hơn hẳn những người khác, nên khi nghe hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?" thì ngay lập tức, ông Phê-rô đã không ngần ngại thay mặt anh em mà thưa với Người: "Thầy là Ðấng Ki-tô của Thiên Chúa" – Lc 9, 18-20)
Thiết nghĩ không thể có lời tuyên xưng nào chính xác hơn được. Và đó cũng là lời tuyên xưng của Hội Thánh sau khi mầu nhiệm Phục Sinh đã hiện thực hoá: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa các chúa, Vua muôn vua. Sở dĩ Phê-rô hôm ấy nói được như vậy là nhờ ở Thánh Thần hoạt động trong lòng trí ông. Ông thốt ra lời rất đúng nhưng vượt quá tầm hiểu biết của ông, cũng giống như nhiều khi các ngôn sứ phát biểu những Lời của Thiên Chúa mà họ chưa quán triệt được tất cả nội dung phong phú. Có lẽ cũng vì vậy nên Ðức Giê-su đã “lập tức cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người” (Lc 9, 21). Họ không nên nói những điều họ chưa hiểu biết thấu đáo, có thể gây ra những sự hiểu lầm, mà cần phải đợi đến khi chân tướng sự việc hiển hiện ra hết rồi hãy tuyên xưng. Cũng bởi vì "giờ" của Người chưa đến. và cái trọng tâm của giờ ấy chính là cuộc khổ nạn, nên kể từ hôm nay, Người bắt đầu mạc khải cho môn đệ biết khía cạnh quan trọng này.
Phê-rô vừa mới thay mặt các môn đệ tuyên xưng “Thầy là Đấng Ki-tô” thì cũng có nghĩa là tuyên xưng “Thầy là Vua” (Ki-tô là xức dầu, mà theo truyền thống thì chỉ có vua mới được xức dầu); vậy mà tiếp liền sau đó Thầy lại “bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Người nói rõ điều đó, không úp mở.” (Mc 8, 31-32). Ðiều đó làm cho các môn đệ càng thêm khó hiểu, và nhất là không thể chấp nhận được. Với bản tính bộc trực nghĩ sao nói vậy, nên “Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người.” Nhưng khi Đức Giê-su quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người liền trách ông Phê-rô rất nặng lời: "Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” (Mc 8, 33).
Thực ra, không chỉ có Phê-rô hoặc các môn đệ, mà cho đến thế kỷ XXI này, không thiếu gì những người nghĩ như vậy. Tư tưởng của loài người là thế. Làm sao hiểu và chấp nhận cho được Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, lại chịu để loài người phỉ báng, loại bỏ và giết chết. Thiên Chúa thương yêu loài người và với quyền năng vô biên, Người chỉ cần phán một lời thì con người sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết đời đời. Nhưng như thế thì con người theo bản tính bẩm sinh bất toàn của mình, sẽ chẳng hiểu được mầu nhịêm này. Con người nếu không được “thực mục sở thị” (trông thấy nhãn tiền) thì vẫn không tin và – vốn dĩ được tự do đến gần như tuyệt đối – sẽ lại khơi khơi sống một cách vô tư như chưa hề biết mình đã được cứu độ.
Chính vì thế, nên ý định tối cao của Thiên Chúa Cha phải được thực hiện một cách cụ thể: Con Thiên Chúa phải xuống thế mặc xác phàm, chịu khổ hình và chết treo trên thập giá thay cho tội lỗi loài người và tới ngày thứ ba sẽ phục sinh vinh hiển. Chỉ có như vậy loài người mới thấu hiểu được hồng ân cứu rỗi do chính Người Con cũng là Người Tôi Trung của Thiên Chúa là Đức Giê-su Ki-tô vâng lời thực hiện. Cũng vì người đời khi được mạc khải chỉ hiểu được tường tận Lời Chúa bằng đức tin, nên sau Lời dạy về cuộc Thương Khó, Đức Giê-su tiếp tục dạy về những điều kiện để theo Người. Vác thập giá đi theo Ðức Ki-tô không chỉ là làm việc khó khăn này, chịu sự cực khổ kia; nhưng trước hết là phải có phương hướng nhất định.
Phương hướng đó chính là đức tin mà những kẻ tin đã lãnh nhận từ nơi Thiên Chúa (“Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô. Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô.” – Gl 3, 26-27). Ðức tin có những đòi hỏi của nó, nếu không, nó chỉ là một mớ, hay một hệ thống những ý tưởng trừu tượng, chứ không phải là sự sống đức tin. Ðức tin ấy phải là một sự sống, và như mọi sự sống nó phải sinh hoạt, phải hành động. Nếu không như vậy thì chỉ là “Đức tin chết” (“Đức tin không có hành động là đức tin chết” – Gc 2, 17). Nói cách khác là phải sống đức tin cách cụ thể trong cuộc sống đời thường. Vâng, khi anh tuyên xưng đức tin là phải nói lên (tuyên – tuyên bố) được niềm tin của anh, đồng thời chứng minh được niềm tin ấy (xưng – xưng ra) trong cuộc sống của anh.
Vâng, chúng ta không được như các thánh Tông đồ thủa xưa “vì đã thấy, nên đã tin”, nhưng nếu chúng ta “không thấy mà tin” thì chắc chắn sẽ được chúc phúc “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20, 29). Vấn đề tuyên xưng đức tin xưa như trái đất, nhưng coi chừng chúng ta mới chỉ TUYÊN bố bằng đầu môi chót lưỡi chớ chưa thật sự XƯNG ra bằng chính cuộc sống của mình. Nói cách khác, nếu anh mới chỉ “nói” chớ chưa thực sự “làm” đúng như những điều anh đã nói, thì cũng chẳng hơn gì những “kinh sư và người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.” (Mt 23, 1-7). Ấy cũng bởi vì “Nhờ hành động mà con người được nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi. Một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết.” (Gc 2, 24-26
Ôi! Lạy Chúa! Con biết rằng con rất mạnh mịêng khi đọc hay hát kinh Tin Kính trong các thánh lễ, nhất là trong đêm Vọng Phục Sinh. Con cũng biết rằng khi con nói về niềm tin của mình thì thao thao bất tuyệt, nhưng con chưa sống niềm tin ấy một cách cụ thể trong cuộc sống thường nhật của con. Con tin vào Chúa, con luôn đến với Chúa, nhưng với những người anh em của con – nhất là những anh em khó nghèo, tật bệnh, lao tù… – thì con lại thờ ơ, lảng tránh. Như vậy thì nào có khác chi con chỉ mới “TUYÊN bố” chớ chưa “XƯNG ra” được niềm tin mà con đã chọn cho cuộc đời mình.
Cúi xin Chúa ban Thần Khí cho con đủ can đảm và dũng khí tuyên xưng đức tin cách công khai bằng chính những việc làm, những sinh hoạt trong gia đình, ngoài xã hội, để con được xứng đáng với danh hiệu “Ki-tô hữu” mà Chúa đã ban tặng. Ôi! Lạy Chúa! “Con tuyên xưng Chúa đã chết đi. Con tuyên xưng Ngài đã sống lại. Trong vinh quang mai Ngài lại đến…” Ôi, lạy Chúa con! Lạy Thiên Chúa của con! Con tin! Amen.
JM. Lam Thy ĐVD.
- Loại bài viết:
- Thể loại khác: