Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Đón nhận hay khước từ?

Tác giả: 
JM. Lam Thy ĐVD.

 

 

ĐÓN NHẬN HAY KHƯỚC TỪ? (CN IV/TN-C)

 

Nếu như Tin Mừng Chúa nhật III Thường niên trình thuật Đức Giê-su thực hiện lời ngôn sứ Isaia đã loan báo về mình, thì bước vào Chúa nhật IV, Người tiếp tục thi hành sứ vụ Thiên sai công khai loan báo Tin Mừng. Danh tiếng Chúa lan truyền khắp nơi: Người chữa lành những người bị quỉ ám, làm cho người mù được sáng mắt, người què đi được, người điếc nghe được, người câm nói được, nhìn chung là mọi người đều vui mừng, sung sướng và thán phục Đấng Thiên Sai.

 

Bài Tin Mừng hôm nay (CN IV/TN-C – Lc 4, 21-30) nối tiếp đoạn trích tuần trước (CN III/TN-C). Cùng trình thuật về chủ đề “Đức Giê-su về thăm Na-da-ret”, 2 tác giả Mat-thêu và Mac-cô chỉ miêu tả thái độ ngạc nhiên của những người đồng hương với Đức Giê-su khiến họ “vấp ngã vì Người”. Sau đó là Lời nói chua chát của Đức Giê-su: "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi." (Mt 13, 57; Mc 6, 4).

 

Riêng với thánh sử Lu-ca thì có thêm đoạn: “Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người. Họ bảo nhau: "Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?" Người nói với họ: "Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!" (Lc 4, 21-23). Nếu chỉ thấy “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người” thì đâu đến nỗi Đức Giê-su phải nói với họ như vậy.

 

Thực ra, Đức Giê-su đã quá hiểu cái kiểu tán thành và thán phục bằng “đầu môi chót lưỡi”, nhưng trong lòng thì lại nghĩ khác của những người đồng hương. Họ cho rằng “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ mộc sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-môn và Giu-đa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế?” (Mt 13, 53-56). Vì thế, Đức Ki-tô vạch trần ý nghĩ đen tối đó. Cái kiểu tán thành và thán phục của những người đồng hương thật chẳng khác gì cảnh “Bề ngoài thơn thớt nói cười, Mà trong nham hiểm giết người không đao.” (“Kiều” – Nguyễn Du). Ngoài miệng thì khen ngợi tâng bốc, nhưng trong lòng thì chỉ muốn nốc-ao (knock out). Ôi chao là nhân tình thế thái!

 

Nói về thái độ xem thường người đồng hương, Việt Nam cũng đã có những kinh nghiệm được đúc kết thành châm ngôn, tục ngữ: “Bụt chùa nhà không thiêng”, “Gần chùa gọi Bụt bằng anh”. Hoá cho nên "Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin." (Mc 6, 5-6). Với những người dân làng bình thường không tin vào Đức Ki-tô thì còn có thể hiểu được, nhưng đến cả những người bệnh được chữa khỏi mà cũng không tin thì quả thật hết biết! Và vì thế mới khiến cho một vị Thiên sai là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, phải "lấy làm lạ" và cuối cùng thốt lên câu nói chua chát như vậy (Mc 6, 4). Thế đấy!

 

Cũng vì biết quá rõ tâm địa của họ, nên Đức Giê-su nói thẳng: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” (Lc 4, 24). Người còn chứng mình bằng cách nêu ra hình ảnh 2 vị ngôn sứ nổi tiếng thời Cựu Ước, đó là ngôn sứ Ê-li-a và Ê-li-sa (Lc 4, 25-27). Quả thật, ngôn sứ bị rẻ rúng nơi quê hương mình như lời nhận xét của Đức Giê-su đã xảy ra từ thời Cựu Ước, đó là trường hợp ngôn sứ Ê-dê-ki-en. Vị ngôn sứ này đã tự thuật: “Người phán với tôi: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái It-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng: “Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này”. Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng.” (Ed 2, 2-5).

 

Và sự tiên đoán của Đức Giê-su đã xảy ra. Đám người đồng hương của Đức Ki-tô vừa mới thơn thớt lỗ miệng “tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”, giờ đây khi nghe Người vạch trần cái “lòng chai dạ đá” của họ ra, thì ngay lập tức “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành - thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.” (Lc 4, 28-30). Đúng là trò “Lật mặt như trở bàn tay”. Thật không ngờ lời ngôn sứ Ê-dê-ki-en sau bao thế kỷ cũng lại ứng nghịêm ở ngay dân được chọn (“dân nội” đàng hoàng!).

 

Như vậy thì rõ ràng không phải chỉ riêng dân làng Na-da-rét mới có cái nhìn sai lệch về Thiên Chúa thông qua những ngôn sứ được sai đến loan báo Tin Mừng; mà kể cả dân tộc Do Thái từ trước đó hàng mấy thế kỷ cũng nổi loạn chống lại Thiên Chúa vì cái thành kiến đè nặng trên lương tri họ ("Người phán với tôi: "Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá.” – Ed 2, 3-4). Ôi chao! Cứ tưởng đó chỉ là truyện cổ tích xảy ra cách đây hơn 20 thế kỷ, nào ngờ ở cái thời đại văn minh tiến bộ vượt bậc ngày nay vẫn còn không ít cảnh "Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá" sống nhởn nhơ trên khắp địa cầu.

 

Ôi! Lạy Chúa! Con biết rằng cái bản tính cố chấp hẹp hòi của con người đã định vị trong con một cách nhìn lệch lạc, không đúng đắn, thiếu khách quan về con người, sự vật hay sự kiện. Thành kiến ấy khiến con nhìn một công trình bằng gỗ thì chỉ chú ý đến nước sơn choáng lộn bên ngoài, mà không cần biết đến chất lượng gỗ bên trong; con đã quên mất rằng "tốt gỗ hơn tốt nước sơn". Hơn thế nữa, khi nhìn anh em, con chỉ chú ý đến vẻ đẹp tô son trét phấn, áo quần loè loẹt bên ngoài, mà quên mất rằng "cái nết đánh chết cái đẹp", quên mất rằng con người cũng chẳng khác một bông hoa "hữu xạ tự nhiên hương" (có mùi thơm thì tự nhiên có hương toả bay, còn nếu đã không có hương thơm thì cái sắc hoa bên ngoài cũng trở thành vô vị mà thôi). Cái thành kiến ấy đã khiến con gặp không ít trường hợp "tốt mã giẻ cùi", và chỉ đến lúc đó, con mới thấy sáng mắt, mới thấy "bừng con mắt dậy, thấy mình... vô duyên!”

 

Ôi! Lạy Chúa! Khi nhìn ra được những sai lầm, con rất muốn tẩy rửa tâm hồn cho sạch mọi vết nhơ của những thành kiến đã trở thành định kiến trong con, con rất muốn thay đổi được cách nhìn, cách suy nghĩ, nhận định thiển cận của con. Lạy Chúa, con lại cũng biết rằng con người của con thật mỏng giòn yếu đuối, nhưng lại rất bảo thủ, khó lòng mà "xoay cái nhìn ra khỏi cái tôi" cố hữu được. Vì thế, cúi xin Chúa ban Thần Khí khơi dậy lửa Mến trong lòng con, soi sáng và hướng dẫn con tẩy rửa con người mình trong Nước và Thánh Thần như Lời Chúa đã hứa năm xưa.

 

Ôi! “Lạy Chúa, xin cho tất cả chúng con biết hết lòng thờ phượng Chúa, và thành tâm yêu mến mọi người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Chúa nhật IV thường niên).

JM. Lam Thy ĐVD.