Tận hiến cho đoàn chiên
TẬN HIẾN CHO ĐOÀN CHIÊN
(CN IV.PS-C – CHÚA CHIÊN LÀNH)
Trong Sứ điệp Ngày Thế Giới Ơn Gọi 2015, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô viết: “Chúa nhật thứ 4 mùa Phục Sinh trình bày cho chúng ta hình ảnh vị Mục Tử nhân lành biết rõ các chiên của mình, kêu gọi, nuôi dưỡng và dẫn dắt chúng. Trong Chúa Nhật này, từ hơn 50 năm nay, chúng ta cử hành Ngày Thế giới cầu cho ơn gọi. Mỗi lần Ngày này đều nhắc nhớ chúng ta về tầm quan trọng của việc cầu nguyện, để, - như Chúa Giê-su đã nói với các môn đệ, - “xin chủ mùa gặt sai nhiều thợ đến làm việc trong mùa gặt của Người” (Lc 10, 2)... Như thế, lắng nghe và theo tiếng Chúa Ki-tô Vị Mục Tử nhân lành, để cho mình được Chúa thu hút và dẫn dắt, dâng hiến chính cuộc sống của mình cho Chúa, có nghĩa là để cho Chúa Thánh Linh dẫn đưa chúng ta vào trong năng động truyền giáo, khơi dậy nơi chúng ta ước muốn và lòng can đảm vui mừng hiến dâng cuộc sống chúng ta, dành cuộc sống để phục vụ chính nghĩa Nước Thiên Chúa.”
Bài Tin Mừng hôm nay (CN IV/PS-C – Ga 10, 27-30) trình thuật câu chuyện một đám người Do Thái cố tình dồn Đức Giê-su vào một thế kẹt để họ dễ dàng lên án Người. Lúc đầu chỉ là câu hỏi như kiểu nêu thắc mắc đòi được giải đáp (“Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Ki-tô, thì xin ông nói công khai cho chúng tôi biết.” – Ga 10, 24). Trước đó, khi nghe Đức Ki-tô nói: “Tôi chính là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10, 14-15), thì đám người Do Thái này đã nói: "Ông ấy bị quỷ ám và điên khùng rồi! Nghe ông ấy làm gì?" (Ga 10, 20). Đức Giê-su quá hiểu mục đích của đám người này không phải muốn được giải tỏa thắc mắc, để họ có thể tin vào Đức Giê-su chính thực là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật; mà thực sự họ chỉ muốn nhân cơ hội kết án Người là phạm thượng, rồi ném đá Người (Ga 10, 31-33).
Vì thế, khi trả lời họ, Đức Ki-tô đã nhấn mạnh: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. Nhưng các ông không tin vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi.” (Ga 10, 25-26). Sau khi xác định đám người Do Thái không thuộc đoàn chiên của mình, Đức Giê-su lại tiếp tục nói về đoàn chiên mà Người thương mến: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. Tôi và Chua Cha là một.” (Ga 10, 27-30). Người đã lấy hình ảnh rất dễ thương của đàn chiên để chỉ những môn đệ và những kẻ tin theo Lời Người; đồng thời Người cũng xác định chính Người là Đấng chăm lo chăn dắt đàn chiên đó – Người chính là vị Chúa Chiên nhân lành.
Hiểu sâu vào vấn đề, thì vị Mục Tử nhân lành ấy được Chúa Cha sai đi chăn dắt đoàn chiên về đường linh thiêng, nên còn gọi là linh mục, và chính Đức Ki-tô là Linh Mục Thượng Phẩm, Linh Mục Duy Nhất như Tông huấn Ki-tô Hữu Giáo Dân (Ch. I, số 14) đã viết: “Thánh Au-gus-ti-nô viết: ‘Cũng như chúng ta tất cả được gọi là Kitô-hữu (Christiani) vì đã được xức dầu (Chrisma) một cách thiêng liêng, do đó tất cả được gọi là linh mục, bởi vì chúng ta là thành phần thân thể của Linh Mục Duy Nhất’ (De Civitate Dei - XX, 10)." Về lý thuyết thì tất cả mọi Ki-tô hữu đều là linh mục (tư tế cộng đồng), nhưng thực tế để có thể điều hành hoạt động của Giáo hội, thì lại rất cần có hàng ngũ những người trực tiếp thừa kế (tư tế thừa tác) sứ vụ của Linh Mục Duy Nhất Giê-su Ki-tô, thông qua Bí tích Truyền Chức ("Danh từ "hàng Linh Mục" đươc chọn với mục đích để chỉ định toàn thể hàng ngũ Linh Mục. Chúa Giê-su đã cho toàn thể Dân Chúa tham dự vào chức linh mục của Người nhưng Người còn muốn thiết lập những "thừa tác viên" của Người, những người này nhờ bí tích Truyền Chức được quyền dâng thánh lễ, quyền tha tội và thực hành chức vụ linh mục nhân danh Chúa Ki-tô." – Sắc lệnh "Chức vụ và đời sống các linh mục", số 2).
Hai chức vụ “tư tế thừa tác” và “tư tế cộng đồng” quan hệ khăng khít với nhau, chức vụ này vừa là tiền đề vừa là kết quả của chức vụ kia và ngược lại. Lý do cũng dễ hiểu: không thể có những phần tử lãnh nhận chức vụ tư tế thừa tác nếu không có hàng ngũ tư tế cộng đồng, ngược lai hàng ngũ tư tế cộng đồng muốn không bị khủng hoảng để đi đến tan rã, cũng rất cần thiết phải có người trông coi, chăm sóc, đó là những tư tế thừa tác. Nói cụ thể hơn, không có Giáo dân (đoàn chiên của Chúa) thì không thể có Linh mục, mà không có Linh mục thì đoàn chiên sẽ bị tan vỡ ngay. Tư tế cộng đồng (Giáo dân) hay tư tế thừa tác (Linh mục) thì cũng đều là con người, mà nói về con người thì “nhân vô thập toàn”, không một cá nhân nào được thập phần hoàn hảo, có ưu điểm thì cũng có khuyết điểm, đó cũng là lẽ tất nhiên.
Trong đoàn chiên của Chúa có rất nhiều những con chiên ngoan hiền dễ thương, biết vâng nghe lời chủ, thì cũng không thiếu những con chiên lạc đàn, chạy theo bầy sói dữ, thậm chí còn quay lại chống trả và giết hại cả chủ chăn (mục tử). Cũng vậy, trong hàng ngũ mục tử – những thừa tác viên kế nghịêp Mục tử nhân lành Giê-su Ki-tô – có rất nhiều những mục tử xứng đáng với vai trò và trách vụ của mình đã được chính Đức Ki-tô trao phó trong bữa Tiệc Ly ("Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en." – Lc 22, 29-30); nhưng cũng vẫn còn những mục tử bất trung, phạm những lỗi lầm nghiêm trọng, như "Thư của Đức Giáo hoàng Bê-nê-đic-tô XVI gởi các linh mục nhằm thiết lập năm linh mục" ngày 16/6/2009, viết : "Bất hạnh thay, cũng tồn tại những hoàn cảnh, không bao giờ lấy làm tiếc đủ, mà chính Giáo Hội phải chịu vì sự bất trung của một số thừa tác viên của mình. Và đối với thế giới, đó là một cái cớ gương mù và khước từ.” (xin coi thêm "Thư đề ngày 20/3/2010 của ĐGH Bê-nê-đic-tô XVI gửi Giáo Hội Ai-len" v/v một số linh mục xâm phạm tình dục trẻ em).
Nói chung, hàng ngũ mục tử cũng như hàng ngũ con chiên đều không thoát khỏi cảnh có những mục tử xấu, những con chiên ghẻ làm gương mù và khước từ ân sủng của Thiên Chúa. Người tín hữu không quá lạc quan để cho rằng đoàn chiên của Chúa cũng như những vị mục tử thừa kế sứ vụ của Đức Giê-su Ki-tô, tất cả đều tốt lành, hoàn hảo; nhưng đồng thời cũng không quá bi quan để cho rằng tất cả đều xấu. Vâng, “Trong Giáo Hội luôn có một ý thức mới mẻ và phấn khởi về sự cao cả của ân huệ của Thiên Chúa, được cụ thể hóa nơi những hình ảnh sáng ngời của những mục tử quảng đại, những tu sĩ rực cháy tình yêu đối với Thiên Chúa và các linh hồn, những vị linh hướng sáng suốt và kiên nhẫn." (xc. “Thư thiết lập Năm Linh Muc 2009”).
Bài Tin Mừng CN tuần trước (CN.III/PS-C) trình thuật về phép lạ “Mẻ cá lớn” có một chi tiết rất đáng lưu ý, đó là: Sau phép lạ, Đức Giê-su hỏi thánh Phê-rô ba lần liền "Simon, con ông Gio-an, con có yêu mến Thầy không?" Ba lần chỉ với một câu hỏi, khi nghe Phê-rô trả lời câu đầu tiên thì Đức Giê-su nói "Hãy chăm sóc chiên con của Thầy" (Ga 21, 15). Điều này cho thấy Đức Ki-tô muốn thánh Phê-rô với tư cách mục tử hãy chăm sóc đàn chiên con. Nếu đã có “chiên con” (giáo dân). thì tất nhiên phải có “chiên mẹ” (linh mục), nên hai lần sau, Đức Giê-su chỉ nói ngắn gọn: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (Ga 21, 17). Đức Ki-tô muốn thánh Phê-rô trông coi cả đoàn chiên (trong đó có chiên mẹ và chiên con), tức là trông coi cả Giáo hội như Người Mục Tử Nhân Lành đã làm ("Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt." – Is 40, 11).
Có lẽ vì trong ràn chiên Giáo hội có cả chiên mẹ (linh mục) và chiên con (giáo dân) nên giáo dân Việt Nam thường dùng tiếng “cha” để gọi các linh mục; mặc dù Chúa dạy không được gọi ai bằng cha hay bằng thầy, vì chỉ có một người Cha duy nhất ở trên trời, và chỉ có một người Thầy duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô (Mt 23, 8-10). Với tiếng cha thân thương dành cho các linh mục như vậy, giáo dân VN luôn mong mỏi các linh mục hãy coi đoàn chiên như con cái, đồng thời hãy coi mình có bổn phận và trách nhiệm của bậc cha mẹ, mà chăm sóc, bảo vệ đoàn chiên. Tuy nhiên, từ cái ưu điểm ấy, cũng nảy sinh những hạn chế. Đó là giáo dân vì gọi linh mục là cha, nên mang một mặc cảm tự ti, luôn e dè – thậm chí sợ hãi – mà không dám gần gũi, cộng tác, sẻ chia trong sứ vụ chung; đồng thời về phía linh mục, cũng có một số tự cao, tự đại coi mình là "cha thiên hạ", không thèm lắng nghe ý kiến từ giáo dân, thậm chí còn coi mình là nhân vật "bất khả xâm phạm, bất khả thay thế" nữa. Số người ấy (từ cả hai phía giáo dân và linh mục) tuy không nhiều, nhưng không phải là không có.
Tóm lại, “Lắng nghe và đón nhận tiếng gọi Chúa không phải là một vấn đề riêng tư và duy nội tâm, có thể bị lẫn lộn với cảm xúc nhất thời; trái lại đó là một dấn thân cụ thể, thực tế và trọn vẹn, bao trùm trọn cuộc sống của chúng ta, đặt cuộc sống ấy phục vụ cho việc xây dựng Nước Chúa trên trái đất này. Vì thế, ơn gọi Ki-tô, được ăn rễ sâu nơi sự chiêm ngắm trái tim của Chúa Cha, đồng thời thúc đẩy dấn thân liên đới giải thoát những người anh chị em, nhất là những người nghèo khổ nhất. Người môn đệ của Chúa Giê-su có con tim rộng mở đối với chân trời vô tận của Chúa và sống thân mật với Chúa, không bao giờ họ trốn chạy cuộc sống và thế giới, nhưng trái lại, “họ sống theo tình hiệp thông truyền giáo” (E.G. 23).” (Sứ điệp của ĐTC Phan-xi-cô nhân ngày Thế giới cầu cho Ơn Gọi – 26/4/2015).
Ý thức được vấn đề, người Ki-tô hữu hãy cầu xin cho mọi thành phần của Giáo hội sống đúng và sống trọn vẹn vai trò của mình: Ai được chọn làm mục tử thì luôn luôn phải là người mục tử tốt lành theo gương Mục Tử Nhân Lành Giê-su Ki-tô; còn đoàn chiên con phải luôn biết đoàn kết thương yêu nhau, cùng nghe theo tiếng nói đích thực của vị Mục Tử Nhân Lành Giê-su thông qua các mục tử trong ràn chiên Giáo hội, để ai nấy đều được sống và sống dồi dào Tình Yêu của Chúa Chiên Lành Giêsu-Kitô. Chỉ có như thế mới đổi mới được cuộc đời, “giải thoát nó khỏi bóng tối sự dữ” như lời dạy của ĐTC Phan-xi-cô trong bài Giáo Lý thứ hai về Năm Đức Tin (ngày 10/4/2013): “Là một Ki-tô hữu không chỉ là tuân giữ các giới răn, nhưng có nghĩa là sống trong Đức Ki-tô, suy nghĩ như Người, hành động như Người, yêu như Người; có nghĩa là để Người làm chủ cuộc đời chúng ta và thay đổi nó, biến đổi nó, để giải thoát nó khỏi bóng tối sự dữ và tội lỗi.” Ước được như vậy. Amen.
JM. Lam Thy ĐVD.
- Loại bài viết:
- Thể loại khác: