Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Vượt qua chính mình

Tác giả: 
JM. Lam Thy ĐVD.

 

 

VƯỢT QUA CHÍNH MÌNH (CN II/TN-A)

 

Theo lịch sử, lễ Vượt Qua là lễ của dân tộc Sê-mít mừng đón mùa xuân trở lại, với cỏ cây hoa lá xanh tươi. Lễ hội này lại trùng với một biến cố quan trọng của dân Ít-ra-en : Ít-ra-en được thoát ách nô lệ của người Ai-cập (Xh 12, 23). Từ “Vượt Qua” theo tiếng Híp-ri: “pasha” (đi qua) mang ý nghĩa là “miễn trừ”. Theo lệnh của Thiên Chúa, nhà lãnh đạo Mô-sê yêu cầu vua Pha-ra-on để cho dân Ít-ra-en về Đất Hứa. Nhà vua không tuân lệnh Thiên Chúa và bị trừng phạt bằng nhiều tai họa. Một tai họa chót là các con đầu lòng sẽ bị giết, trừ con cái Ít-ra-en, khi Thiên Chúa “vượt qua” khỏi các nhà của họ, nhờ máu chiên ghi trên các cửa nhà họ.

Sau đó, ý tưởng: Thiên Chúa vượt qua để cứu con cái Ít-ra-en khỏi ách nô lệ Ai-cập, được nối kết với ý tưởng: dân Ít-ra-en cũng được đi theo Thiên Chúa, vượt qua đất Ai-cập trở về Đất Hứa. Như thế, từ đây Ít-ra-en mừng lễ Vượt Qua để tưởng niệm sự can thiệp tiêu biểu của Thiên Chúa để giải thoát con cái Ít-ra-en và gầy dựng dân tộc của Người (Wikipedia).

Lễ Vượt Qua trong Cựu Ước là ngày giết con chiên được gọi là chiên Vượt Qua, mà “Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi… Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên... Các ngươi phải ăn vội vã: đó là lễ Vượt Qua mừng ĐỨC CHÚA… Còn vết máu trên nhà các ngươi sẽ là dấu hiệu cho biết có các ngươi ở đó. Thấy máu, Ta sẽ vượt qua, và các ngươi sẽ không bị tai ương tiêu diệt khi Ta giáng hoạ trên đất Ai-cập.” (Xh 12, 5-13). Như vậy, trong lễ Vượt Qua, chiên tượng trưng cho sự giải thoát, sự vượt qua của dân Do Thái khỏi ách nô lệ Ai-cập; “Đó là lễ tế Vượt Qua mừng ĐỨC CHÚA, Đấng đã vượt qua các nhà của con cái Ít-ra-en tại Ai-cập, khi Người đánh phạt Ai-cập và cho các nhà chúng ta thoát nạn." (Xh 12, 27).

Theo luật công bằng đòi hỏi thì có tội phải đền tội, ai phạm tội thì chính người ấy bị phạt là lẽ đương nhiên. Nếu là phạm đến Thiên Chúa thì chỉ có hình phạt chết mới xứng đáng. Tuy nhiên, vì lòng thương xót vô biên, Thiên Chúa nhân lành không muốn con người phải chết ("Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống" – Ed 18,23); nên để con người còn được sống mà ăn năn hối cải, Người chấp nhận cho con người lấy chiên cừu để thế mạng. Như vậy, chiên bị sát tế là để hy sinh chết thay cho con người lẽ ra phải chết vì tội lỗi mình. Điển hình là trường hợp tổ phụ Ap-ra-ham định sát tế chính con của mình là I-sa-ac làm của lễ toàn thiêu dâng lên Thiên Chúa, thì Đức Chúa phán: "Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!" – St  2, 12), và tổ phụ đã dùng con cừu làm tế vật thay cho con của mình.

Vì kính sợ Thiên Chúa, tổ phụ Ap-ra-ham đã dám hy sinh cả “con một” của mình. Đổi lại, vì Tình yêu, Thiên Chúa đã dùng chính Con Một làm Chiên sát tế để cứu chuộc loài người. Quả thật “Nếu máu các con dê, con bò còn thánh hóa được con người, làm cho họ trở nên trong sạch, thì máu của Đức Ki-tô càng hiệu lực hơn biết mấy.” (Dt 9, 13-14). Hiệu lực đến độ Người chỉ cần chết một lần là đủ xóa được tội lỗi toàn nhân loại (“Chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ.” – Dt 10, 10). Cũng bởi vì Người là “Con Chiên vẹn toàn, không tỳ vết” (1Pr 1, 19), nhất là vì Người cũng chính là Thiên Chúa, nên giá trị cứu chuộc của Người là vô cùng vô tận (“Máu của Người rảy xuống, máu đó kêu thấu trời còn mạnh thế hơn cả máu Aben” – Dt 12, 24; “Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” – Cl 1, 20).

Đó là lý do giải thích vì sao khi vâng lệnh Chúa Cha xuống trần, “Chúa Ki-tô đã hoàn tất công trình cứu chuộc nhân loại và tôn vinh Thiên Chúa cách hoàn hảo, nhất là nhờ mầu nhiệm Vượt Qua của Người; nhờ đó, Người đã chết để tiêu diệt sự chết của chúng ta và sống lại để khôi phục sự sống cho chúng ta” (Quy luật tổng quát về Năm Phụng vụ và Niên  lịch “Normae de Anno et Calendario”, số 18). Rõ ràng Người đã là một Con Chiên được sát tế để cứu độ nhân loại. Chính vì thế, để giới thiệu Người cho công chúng biết, Thánh Gio-an Tẩy Giả đã tuyên xưng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.” (Ga 1, 29-30).

Theo lẽ thường, gọi Đức Giê-su là “chiên” thì quả là xúc phạm, nhưng để cứu chuộc nhân loại, theo kế hoạch của Thiên Chúa, Đức Giê-su phải bị giết chết để đền tội thay cho loài người. Vì đã được mạc khải từ trước, nên Thánh Gio-an Tẩy Giả mới dám gọi Người là chiên, nhưng là “Chiên Thiên Chúa”. Về sau, Gio-an Thánh sử trong sách Khải Huyền cũng rất nhiều lần dùng từ “Con Chiên” để chỉ về Đức Giê-su. Những con chiên bị sát tế trong lễ Vượt Qua không biết được mình bị giết để có thể cứu dân It-ra-en thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập, nhưng Chiên Giê-su thì đã biết rõ từ khi lãnh nhận sứ vụ của Người từ Thiên Chúa Cha. Biết rõ và khắc khoải lo âu để hoàn tất ("Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!" – Lc 12, 50).

Sự âu lo đó biểu hiện rất rõ trên núi Cây Dầu khi lễ Vượt Qua cận kề ("Người bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến. Bấy giờ Người nói với các ông: "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy." (Mt 26, 37-38). Không những chỉ xao xuyến buồn rầu, mà còn lo sợ không uống nổi chén đắng (đến độ đổ cả mồ hôi máu ra), nên mới cầu nguyện cùng Chúa Cha: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này" (Mt 26, 37). Đó là sự cám dỗ của xác thịt theo bản tính loài người, nhưng với bản tính Thiên Chúa, thì "Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha." (Mt 26, 42). Đức Ki-tô đã nói rõ hơn để nhắc nhở các môn đệ: "Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn." (Mt 26, 41). Tinh thần thì hăng say, năng nổ, nhưng thể xác lại yếu hèn rất dễ bị cám dỗ, đó phải chăng là đặc tính chung của loài người ?

"Tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn" ư? Thực thế, cứ nhìn ngay vào những môn đệ ở liền bên với Đức Giê-su cũng đủ rõ. Tiêu biểu hơn cả là thánh Phê-rô và cũng ở ngay trên núi Cây Dầu, trước khi Đức Giê-su cầu nguyện, Người đã tiên báo "Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Vì có lời đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác" (Mt 26, 31). Mới nghe vậy, Phê rô đã hùng hồn: "Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã." (Mt 26, 33). Không những thế, khi Đức Giê-su cảnh giác chính Phê-rô sẽ chối Thầy tới 3 lần trong một đêm, thi ngài đã khăng khăng: "Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy". Mà cũng chẳng riêng gì Phê-rô đâu, vì "Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy" (Mt 26, 35). Cuối cùng, thực tế đã chứng minh tất cả đã xảy ra đúng như Lời Đức Ki-tô dạy.

Hoá cho nên, nếu chỉ hùng hồn tuyên bố sẽ trung thành với đức tin đến cùng, thì đó mới chỉ là những tuyên bố suông, ai cũng có thể nói được. Chỉ đến khi đối diện với những thử thách nghiệt ngã, với cái chết, với nhục hình, mà vẫn can đảm thực hành đúng như lời mình đã tuyên bố, đã khẳng định ("lời nói đi đôi với việc làm"), ấy mới thực sự là những môn đệ đích thực của Chiên Thiên Chúa Giê-su Ki-tô. Vâng, chỉ đến lúc gặp lửa rồi mới biết vàng thật hay vàng giả. "Lửa thử vàng, gian nan thử sức", "đức tin có vượt qua được thử thách" (Gc 1, 2) mới là đức tin kiên vững vậy.

Tuy nhiên, cũng đừng vội nản lòng khi đã nhận ra "tư tưởng của con người" là như thế. Đến như Thánh Phê-rô là người ở liền bên với Đức Giê-su, luôn được nghe những lời dạy bảo chí tình chí nghĩa, đã từng tuyên xưng Thầy mình là Thiên Chúa, mà còn bị quở trách: "Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người." – Mt 16, 23); thì người Ki-tô hữu hôm nay (sống cách thời ấy tới 20 thế kỷ) cũng không nên vì thế mà bi quan, rồi buông xuôi "mặc cho con tạo xoay vần". Cứ thử đặt một câu hỏi: "Vì sao Đức Ki-tô đã biết trước Phê-rô là như vậy, mà Người vẫn dùng ngài làm viên đá tảng xây dựng Hội Thánh của Người?" Ấy cũng bởi vì Người biết rõ loài người là như thế, duy chỉ có điều là sau những lỗi phạm sai sót, có biết nhìn lại mình mà ăn năn hối cải hay không. Sau khi thánh Phê-rô chối Chúa, thì ngày nào cũng vậy, cứ nghe tiếng gà gáy là lại nhớ đến tội xưa, ăn năn khóc lóc thảm thiết. Vấn đề là ở chỗ thánh Phê-rô nhân biết rõ lỗi phạm của mình, không những biết ăn năn hối cải, mà còn trở nên như một tông đồ kiệt xuất toàn tâm toàn ý làm chứng nhân cho Tin Mừng Cứu Độ, sẵn sàng đối mặt với những bách hại chực chờ, để xứng đáng là người đứng đầu Giáo hội tiên khởi.

Đức Giê-su là Chiên Thiên Chúa và cũng bởi Người chính là Thiên Chúa thật, nên Người cũng là vị Mục Tử nhân lành chăn dắt đoàn chiên của Thiên Chúa (bao gồm tất cả mọi Ki-tô hữu) như Người đã từng khẳng định: "Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên... Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi" (Ga 10, 11...27-28). Đến những con chiên đầu đàn (là các Tông đồ tiên khởi) cũng học theo, bước theo, làm theo Lời dạy của Chiên Thiên Chúa Giê-su Ki-tô, nên tất nhiên đã có những mùa gặt bội thu là quy tụ được những đoàn chiên đầu tiên (xc. "Những cộng đoàn tín hữu đầu tiên" – Cv 2, 42-46. 4, 32-34...). Với những đàn chiên Ki-tô hữu ngày nay, mỗi con chiên sẽ nghĩ gì và làm gì để xứng đáng với hồng ân được làm chiên của Chiên Thiên Chúa Giê-su Ki-tô?

Thiên Chúa đã tôn vinh Chiên Ki-tô: "Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Gia-cóp, để dẫn đưa các người Ít-ra-en sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất." (Is, 49, 6). Vậy thì tại sao những chiên Ki-tô hữu – cách riêng, đoàn chiên Việt Nam – không can đảm lên, ngẩng cao đầu làm một vì sao chiếu toả ánh sáng cho người khác như chính Người "làm-ánh-sáng-muôn-dân" đã dạy: "Chính anh em là ánh sáng cho trần gian" (Mt 5, 14). Mà muốn được như vậy, thì điều tiên quyết phải hiểu rằng Chiên Thiên Chúa Giê-su Ki-tô không chỉ là Chiên đơn thuần mà là Chiên Sát Tế. Vậy thì hãy nhìn vào tấm gương các Thánh Tử vì Đạo Việt Nam để hiểu rằng các ngài đã học theo, bước theo, làm theo Chiên Sát Tế Giê-su Ki-tô, như những con chiên đầu đàn, những đoàn chiên tiên khởi đã làm cách đây 2000 năm, để có được 130.000 chiên sát tế VN (với 117 vị hiển thánh) đã hoàn tất sứ vụ cách đây 3 thế kỷ.

Ôi! Lạy Chúa! Vì tha thiết yêu thương và để cứu chuộc nhân loại, Chúa đã vâng chịu làm “Con Chiên Sát Tế”. Cúi xin Chúa ban Thần Khí cho chúng con có đủ dũng cảm noi gương những chiên sát tế Tử Vì Đạo Việt Nam, được trở nên những con chiên ngoan hiền trong ràn chiên của Chúa, sẵn sàng chịu thử lửa, thậm chí chịu sát tế vì Chúa Chiên Nhân Lành và vì cả ràn chiên Giáo hội đang trên đường lữ thứ trần gian tiến về quê Trời vĩnh cửu. Ôi! Lạy Chúa! Chúa đã chịu khổ hình, chịu chết vì tội lỗi chúng con, đã Vượt Qua sự chết và sống lại hiển vinh. Xin Chúa giúp chúng con vượt qua được chính mình để có thể được “cùng chết với Đức Ki-tô và cùng sống lại với Người”. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen. 

JM. Lam Thy ĐVD.