Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Tiếng lòng - Lữ hành tháng chạp

Tác giả: 
Trầm Thiên Thu

TIẾNG LÒNG

 

Thế Gian Tội Lỗi Mong Chờ Ơn Thánh

Con Chúa Làm Người Cứu Độ Thế Nhân

Cuộc sống con người luôn có những khoảng mong chờ. Thuở nhỏ mong mẹ đi chợ về, lớn lên chờ dịp tốt để thăng tiến, tín nhân đợi nhau đi hành hương, chờ tới lượt xưng tội,... Đủ dạng chờ đợi trong đời thường. Người có thể chờ đợi là người kiên trì – một đức tính luôn rất cần thiết, cả đời thường và tâm linh.

 

Thánh Bêđa Khả Kính nói: “Mong đợi làm cho chúng ta an toàn tiến vào thành vĩnh phúc.” Nhận xét của Thánh Sibyllina Pavia như một định nghĩa: “Mong đợi giống như đồ đựng, đồ đựng càng lớn thì chứa được càng nhiều, đồ đựng càng nhỏ thì chứa được càng ít. Mong đợi lớn thì được ân sủng nhiều, mong đợi nhỏ thì được ân sủng ít.” Bác học Thomas Edison đã từng thi trượt môn toán, bị thầy dạy chê là “ngu như con lừa” và phải thất bại tới 14.000 lần rồi ông mới có thể phát minh bóng điện. Sức kiên trì mãnh liệt vì có niềm tin sâu thẳm.

 

Cần cố gắng tự hứa làm theo lời ngôn sứ Isaia khuyên: “Hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núđồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hóa thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu. (Is 40:3-4) Cũng như Thánh Gioan chỉ bảo: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. (Mc 1:3)

 

Rất cần có “khoảng sa mạc” dành riêng cho Thiên Chúa, bất cứ lúc nào và bất cứ nơi nào. Trong đó, tín nhân tâm sự với Ngài, dù biết rằng chúng ta chưa nghĩ điều gì đó thì Ngài đã biết rõ mọi sự rồi.

 

TÍN NGUYỆN

Đối với phàm nhân, khoảng chờ đợi luôn là khoảng thời gian dài nhưng lại có niềm vui riêng biệt, dẫu đôi khi có bồn chồn, khắc khoải, thậm chí là “khổ sở” lắm. Thí sinh hồi hộp chờ kết quả thi. Nông dân thắc thỏm mong mưa để gieo hạt, rồi lại lóng ngóng đợi ngày thu hoạch. Những người yêu nhau thao thức trông ngóng nhau từng phút, từng giây. Và còn rất nhiều mối chờ khác đã, đang và sẽ luôn tồn tại trên cõi đời này. Riêng với Kitô hữu có một mối chờ đặc biệt hơn, điều mà đối với người không có niềm tin tôn giáo coi là mơ hồ, thiếu thực tế hoặc ảo tưởng. Đó là mong chờ Đấng Thiên Sai đến giải thoát nhân loại. Ngài là Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa Ngôi Hai, Đức Kitô Giêsu.

 

Bất cứ ai mong chờ điều gì đó luôn có vẻ trầm tư, mặc nhiên mang nét bâng khuâng, được thể hiện qua màu tím. Cõi lòng chờ đợi luôn là cõi-lòng-tím. Trong cổ tích hay thần thoại, những người cùng khổ luôn được thần tiên cứu giúp. Trong thời đế quốc và thực dân, nhân dân Việt Nam đã từng ròng rã bao năm trường khao khát được giải thoát khỏi ách nô lệ. Và niềm vui thực sự được nhân lên khi chính người Việt Nam làm chủ đất nước. Chúng ta đang ở thiên niên kỷ thứ ba. Như vậy, Đấng Thiên Sai đã giáng trần hơn hai ngàn năm. Ngài đến như một phàm nhân để cứu độ nhân loại, nhưng nhân loại còn trông đợi Ngài giáng lâm lần hai trong ngày Cánh Chung – khi lời hứa được kiện toàn.

Cuộc sống thế gian này chỉ là thời kỳ quá độ, làm cầu nối vào cuộc sống vĩnh hằng mai sau. Thế nhưng cuộc đời có bao chước cám dỗ, bao điều khiến lòng người chia trí hoặc thoái hóa trên suốt chặng đường trần thế: Tiền tài, danh vọng, địa vị, sắc dục, quyền thế, chức tước, ghen ghét, thù hận,… Vì thế Chúa Giêsu đã căn dặn: “Hãy tỉnh thức.” (Mt 24:42 & 25:13) Đặc biệt hơn, Ngài nhấn mạnh: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ. Tinh thần thì sẵn sàng, nhưng thân xác thì yếu đuối.” (Mt 26:41) Như vậy, chúng ta phải cầu nguyện liên lỉ, vì “cầu nguyện là sức mạnh của con người và là sự yếu đuối của Thiên Chúa.” (Thánh Augustinô)

 

Thánh Ephraem Syria nói: “Các nhân đức thành hình nhờ cầu nguyện. Lời cầu nguyện duy trì sự điều độ, ngăn chặn sự tức giận, ngăn chặn sự kiêu ngạo và đố kỵ. Lời cầu nguyện đưa Chúa Thánh Thần vào linh hồn và nâng con người tới Thiên Đàng. Cầu nguyện là cuộc đàm đạo thân mật giữa Thiên Chúa và con người. Cầu nguyện không chỉ đơn thuần là “xin” mà còn là xưng tụng và tôn vinh Đấng đã yêu ta từ trước muôn đời bằng tình thương vô thủy vô chung. Không có gì cân xứng để chúng ta đáp lại. Tình yêu chỉ có thể đáp lại bằng tình yêu. Cần có thái độ dứt khoát, vì Thiên Chúa muốn vậy: “Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta.” (Kh 3:15-16)

 

Trong xã hội loài người, hai người yêu nhau luôn nôn nóng và mong muốn gặp nhau, ít nhất cũng là qua thư từ, email, điện đàm,… Khi được gặp nhau, họ không nói gì, chỉ cần nhìn nhau cũng thấy thỏa mãn. Đối với người yêu Chúa, cầu nguyện phải là điều tất yếu, là “đường dây nóng” để liên lạc với Ngài, là nhiên liệu cho cỗ máy hoạt động, là nắng ấm khi giá lạnh, là cơn mưa khi hạn hán, là tất cả những gì không thể thiếu, là chất cần thiết nhất của sự sống: Không khí. Thiếu cầu nguyện, tâm hồn hóa xanh xao, gầy guộc, èo uột, vàng võ, héo úa.

 

Cầu nguyện không hẳn là đọc kinh, nếu đọc kinh thì phải suy niệm theo lời kinh. Đọc nhiều, đọc to, đọc nhanh như chạy đua thì chẳng khác gì mở CD hoặc USB có sẵn phần thu âm. Cuộc sống ngày nay quá xô bồ, ồn ào vì những lo toan đời thường, khó tập trung, thế nên luôn phải nỗ lực. Hãy nhìn vào một đôi nam nữ trên một chuyến xe hay ở công viên, họ thủ thỉ với nhau y như chỉ có riêng hai người vậy. Họ dễ dàng “quên” tất cả những gì xảy ra xung quanh để có thể tạo nên một “thế giới riêng” của họ. Bất kỳ lúc nào hoặc ở đâu, tín nhân vẫn có thể tạo ra một “sa mạc riêng” ngay trong lòng mình để tâm sự với Người Yêu Chí Thánh là Thiên Chúa, không cần nói nhiều hoặc văn vẻ với ý này ý nọ, chỉ cần hướng tâm lên Ngài là đủ.

 

Chuyện kể rằng, trên bãi biển vắng, linh hồn thấy có hai loại dấu chân khi vui, nhưng chỉ thấy một loại dấu chân khi buồn. Linh hồn hoảng hốt. Nhưng chính lúc linh hồn thấy một loại dấu chân là lúc linh hồn đang được Thiên Chúa cõng trên lưng như chủ chiên cõng một con chiên nhỏ yếu. Thánh Augustinô trải nghiệm: “Ngài có đó khi ta tưởng đơn côi, Ngài thương ta khi mọi người ghét bỏ, Ngài nghe ta khi chẳng ai đáp lại.” Đôi khi mỏi mệt và thất vọng, lòng người lại hồi sinh khi có Thiên Chúa. Ngài luôn ở bên chúng ta mọi nơi mọi lúc, cho đến tận thế.

 

THỎA NGUYỆN

Điều gì phải đến rồi cũng đến – dù buồn hay vui. Thời gian trôi bình thường theo thiên luật mà con người cảm thấy mau quá! Giáng Sinh lại về. Và cuối năm lại tới... Đây cũng là dịp nhắc nhở con người, nhất là đối với tín nhân, về chuyện Sinh – Tử. Đặc biệt hơn, Giáng Sinh là dịp tốt để suy tư về nhân đức khó nghèo, về chuyện giàu – nghèo trong xã hội loài người.

 

Thỏa nguyện khi khoảng mong chờ kết thúc: Con Chúa giáng sinh làm người. Mọi người đều hân hoan, niềm vui rạo rực rất lạ. Chúng ta không biết tặng quà sinh nhật cho Hài Nhi Giêsu bằng thứ gì, mà Ngài cũng chẳng cần, vì Ngài còn cho chúng ta nhiều thứ hơn chúng ta mong đợi, nhưng chắc chắn Ngài muốn chúng ta noi gương Ngài sống đơn nghèo.

Người nghèo khổ lắm, không đủ ăn đủ mặc đã đành, còn chịu áp bức, đàn áp, bị đối xử bất công. Ngày xưa, “có khách đến thăm người giàu, ông này tiếc của, không bắt chiên dê hay bò của mình mà làm thịt đãi người lữ khách đến thăm ông. Ông bắt con chiên cái của người nghèo mà làm thịt đãi người đến thăm ông.” (2 Sm 12:4) Oan ức lắm mà đành chịu!

 

Và còn hơn nữa, “phường gian ác lôi trẻ mồ côi ra khỏi bầu sữa mẹ, bắt người nghèo nộp con làm của cầm.” (G 24:9) Nghèo thì khổ – khổ lắm, vì họ “vất vả vẫn thiếu hụt miếng ăn, ngưng làm việc là bần cùng thiếu thốn.” (Hc 31:4) Sự kỳ thị rõ ràng ngay từ trong gia đình: “Kẻ nghèo túng bị mọi anh em khinh rẻ, bạn hữu lại càng lánh xa!” (Cn 19:7) Giàu thì oai – oai lắm, vì họ “vừa ăn cướp vừa la làng, còn người nghèo bị thiệt thì lại phải năn nỉ.” (Hc 13:3) Khoảng cách giàu – nghèo dễ dàng nhận ra: “Người giàu trượt chân thì được bạn bè nâng đỡ, còn kẻ nghèo mà ngã thì bị bạn hữu bỏ rơi. Người giàu mà có lỡ, thì nhiều người cứu gỡ cho, có nói bậy, người ta cũng cho là phải. Kẻ nghèo có lỡ, thì người ta chê trách, có nói hay, thiên hạ cũng chẳng kể vào đâu. Người giàu lên tiếng thì mọi người im lặng, người ta đưa lời của nó lên tận chín tầng mây; khi kẻ nghèo lên tiếng thì họ bảo: ‘Ai vậy?’ Nếu nó vấp, họ sẽ xô cho té nhào.” (Hc 13:21-23) Chuyện “xóa đói, giảm nghèo” chỉ là khẩu hiệu, là bức bình phong, là “chiêu bài” mà thôi.

 

Thế nhân lộng hành đủ kiểu. Chuyện nhỏ hơn con thỏ mà người ta sẵn sàng ra tay sát hại nhau, kể cả những người thân thuộc máu mủ, hung khí lúc nào họ cũng có sẵn; chuyện phá thai xảy ra hằng ngày nhiều hơn cơm bữa; người ta coi khinh người nghèo, xúc phạm nhân phẩm, coi thường nhân vị của người khác; bạo lực và đàn áp khắp thế giới, người ta đang tâm tước đoạt nhân quyền của người khác một cách trắng trợn; bạo hành và bạo lực xảy ra ngay trong các gia đình; không chỉ thế quyền đàn áp tôn giáo mà chính các tôn giáo cũng kèn cựa lẫn nhau. Em thấy Thánh Phaolô đã nói như một lời tiên tri: “Mầu nhiệm của sự gian áđang hoành hành. (2 Tx 2:7) Thật đáng sợ!

 

Người ta không thương người nghèo như Chúa dạy, mà người ta còn lợi dụng những người yếu thế đủ kiểu, kể cả các trẻ em nghèo, họ bắt chúng đi ăn xin hoặc bóc lột sức lao động để phục vụ cho tham vọng ích kỷ của họ. Có rất nhiều hoàn cảnh đáng thương lắm. Chuyện đời đã vậy, chuyện đạo cũng không kém phần rắc rối, người ta cũng vẫn coi trọng chức quyền, thích người giàu, phe cánh đủ kiểu, dân không nói thì họ lên mặt, nói ra thì bị trù dập, mà họ cũng chẳng thèm nghe. Bề trên và bề dưới cũng vẫn có “khoảng cách” nhất định, đôi khi khó lấp đầy. Buồn thay!

 

Chính Chúa Giêsu đến để minh xét cho những người thấp cổ bé miệng được giải oan và được sống đúng cương vị con người của họ. Dấu chỉ để các mục đồng nhận ra Hài Nhi Giêsu: “Một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” (Lc 2:12) Đơn nghèo mà kỳ diệu, vì Hài Nhi đó là Thiên Vương, là Đấng Thiên Sai, là Chúa Cứu Thế, là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Đó cũng là dấu chỉ để tín nhân nhận ra Chúa Giêsu sống động nơi những con người nghèo hèn giữa thế giới ngày nay vậy.

Vinh Danh Thiên Chúa Trên Trời Cao Thẳm

Hạnh Phúc Thiện Nhân Dưới Đất Thái An

(Lc 2:14)

 

Lạy Chúa Hài Đồng, xin cảm tạ Ngài đã đến với nhân loại. Chúng con thực sự cần Ngài và khao khát Ngài, xin soi đường dẫn lối cho chúng con. Xin hoán cải và biến đổi chúng con, xin cho chúng con nhận ra Ngài hiện thân nơi người nghèo và người hèn mọn, và xin giúp chúng con sống đơn nghèo như Ngài. Xin ban Thánh Thần thánh hóa và hiệp nhất mọi người nên một như TôÝ Chúa Cha. Amen.

TRẦM THIÊN THU

[Đăng báo TTĐM tháng 12-2023, Dòng Mẹ Chúa Cứu Chuộc xuất bản tại Hoa Kỳ]

 

LỮ HÀNH THÁNG CHẠP

Thời Khắc Co Ro Miền Tháng Chạp

Đức Tin Mở Rộng Cõi Tâm Linh

Thời gian luân chuyển, có lẽ thời gian cũng... “lữ hành” vậy. Tháng Giêng, tháng Hai,... tháng Chín, tháng Mười,... rồi tháng Chạp. Tứ thời, bát tiết tuần tự luân phiên theo Xuân, Hạ, Thu, Đông. Tình cảm con người cũng thay đổi: Hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục.

 

Cuộc đời là một chuyến đi. Cuộc sống là một cuộc lữ hành. Ngày xưa, dân Israel đã lữ hành qua sa mạc 40 năm để tiến vào Miền Đất Hứa. Các tín nhân cũng là những lữ khách tiến tới Miền Đất Hứa vĩnh cửu – Thiên Đàng. Đời lữ hành phải kiên trì.

 

Ngày nay, các Kitô hữu lữ hành qua Mùa Vọng để tiến vào Miền Giáng Sinh, hân hoan mừng Con Chúa giáng trần làm người. Lễ Giáng Sinh không còn riêng của Kitô giáo mà trở thành lễ hội của mọi người – không phân biệt tôn giáo nào hoặc không theo tôn giáo nào. Vì thế, dần dần ý nghĩa thuần túy cũng bị giảm sút, vì người ta chú trọng ngoại tại nhiều hơn nội tại, lo “phần nổi” nhiều hơn “phần sâu.” Ngày nay, các Kitô hữu cũng bị “hút” vào vòng-xoáy-trần-tục đó, kể cả người Công giáo. Đó là “hạt sạn” trong chiếc bánh vui Giáng Sinh.

 

Lễ Giáng Sinh rất đặc biệt, không chỉ đối với Tây phương, vì ngay sau lễ Giáng Sinh là Tân Niên – một Khởi Đầu mới, mà còn với mọi người và mọi tôn giáo, kể cả người vô thần, vì ngày nay người ta hầu hết đều chấp nhận Dương Lịch là Công Lịch. Giáng Sinh là Mùa Hân Hoan, người ngoại cũng vui mừng. Điều đó cho thấy Thiên Chúa chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa đích thực. Cứ công tâm xem xét thì ai cũng nhận thấy: Không một vị thần linh nào, hoặc một “đạo trưởng” nào của bất kỳ tôn giáo nào, được người ta “chú ý” và bày tỏ niềm hân hoan đón mừng ngày sinh hoặc ngày kỵ, thế mà lễ Chúa Giáng Sinh luôn được mọi người chào đón, mặc dù họ chỉ “ăn theo” hoặc vui mừng theo phần trần tục.

 

Giáng Sinh là dịp hướng tới Belem và lữ hành tới Belem, dù theo nghĩa đen hay nghĩa bóng. Belem nhỏ bé mà quan trọng. Là vùng sâu vùng xa mà rất đặc biệt, được nói tới từ xưa: “Phần ngươi, hỡi Belem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Israel. Nguồn gốc của Người có từ thời trước, từ thuở xa xưa.” (Mk 5:1) Và Tân Ước cũng đề cập: “Phần ngươi, hỡi Belem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời.” (Mt 2:6) Vị Lãnh Tụ đó chính là Ngôi Hai Thiên Chúa – Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế.

 

Belem còn được gọi là Épratha, nằm cách Giêrusalem 4 dặm (gần 6,5 km) về phía Nam và cao gần 2.500 ft (762 m) so với mực nước biển. Mặc dù đó là thành của Vua Đavít và Rakhen (vợ thứ hai của Giacóp) được chôn cất ở đó. Nhưng vào thời điểm đó, nó được coi là một thành phố nhỏ. Tuyến đường này đồi núi, rất khó di chuyển, nhưng được nhiều đoàn lữ hành sử dụng để đi từ Giêrusalem tới Ai Cập.

 

Ông Giuse là hậu duệ Vua Đavít, đến từ Giuđa bé nhỏ, nhưng ông và bà Maria đang sống ở Nadarét, thuộc Bắc Galilê, khi Maria mang thai Chúa Giêsu. Khi Maria gần cuối thai kỳ, hoàng đế Augustô đã ra lệnh điều tra dân số lớn buộc mọi người phải về quê của họ. Bởi thế, “ông Giuse từ thành Nadarét, miền Galilê lên thành vua Đavít tức là Belem, miền Giuđê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đavít.” (Lc 2:4)

 

Một hành trình dài 97 dặm (hơn 156 km) là một thử thách thực sự đối với Đức Maria và Đức Giuse, vì đường sá không trải nhựa như bây giờ, trong khi họ đang ở trong phần đất của Đế chế La Mã. Lúc đó, phương tiện di chuyển cho hai người chỉ có thể là lừa hoặc lạc đà. Vả lại, Đức Maria mang thai 9 tháng rồi. Rất gian nan!

 

Phúc Âm không nói về phương tiện vận chuyển mà hai ông bà sử dụng, nhưng chúng ta có thể nghĩ rằng ông bà có một con lừa chở đồ dùng và thực phẩm. Có lẽ họ cũng đã ngủ vài đêm dưới trời đầy sao hoặc tại các nhà trọ. Cuối cùng, họ không tìm thấy nơi nào để nghỉ nên đành đến một nơi giữ động vật. Một hành trình mệt mỏi!

 

 

Lễ Giáng Sinh không chỉ nhắc nhở chúng ta về đức nghèo khó, mà còn về lòng can đảm với sự tận tụy của Đức Maria và Đức Giuse. Điều đó khiến chúng ta suy nghĩ lại về sự vất vả của việc di chuyển bằng ô tô hoặc máy bay để về thăm gia đình trong những ngày nghỉ lễ, nhưng chắc chắn chẳng thấm thía gì so với nỗi cực khổ của Đức Maria và Đức Giuse ngày xưa.

 

Theo lời kể của Thánh sử Luca, trong vùng ấy có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” (Lc 2:8-12)

 

Sau khi nghe thiên thần báo tin, các mục đồng cùng nhau lữ hành tới Belem để thờ lạy Vua muôn vua. Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” (Lc 2:13-14)

 

Có lẽ rất ít người có điều kiện để đến Belem cụ thể theo địa lý, nhưng chắc chắn ai cũng có thể đến Belem để gặp Con Thiên Chúa ngay trong lòng mình, vì linh hồn của mỗi người là Hang Đá mà Hài Nhi Giêsu muốn ngự vào, vì đó là “ngôi đền” mà Thiên Chúa ưa thích.

 

Có những lữ khách khác cũng miệt mài tìm kiếm Thiên Chúa, đó là các nhà chiêm tinh đi từ Đông phương. Thánh Mátthêu không xác định số người, chỉ nói “có mấy nhà chiêm tinh.” (Mt 2:1) đạo sĩ được mô tả là hậu duệ của Seth, con trai thứ ba của Nguyên Tổ Adam. Theo các nhà nghiên cứu, họ là những người Ba Tư đến từ vùng đất bán thần thoại Shir (liên quan Trung quốc cổ đại) và họ đã có một hành trình dài. Họ thuộc một giáo phái tin vào việc cầu nguyện thầm lặng. Theo quy ước, người ta đồng ý gọi tên ba đạo sĩ là Gaspar, Melchior và Balthasar. Người ta đã chờ đợi hàng ngàn năm để thấy “ngôi sao lạ” xuất hiện, điều mà người ta tin là dấu hiệu báo Thiên Chúa xuống thế làm người.

 

Nào, chúng ta cùng đi Belem tham dự Sinh Nhật Ấu Chúa Giêsu, địa điểm là Hang Đá Tâm Hồn của chúng ta. Đức Mẹ Maria và Đức Thánh Giuse tha thiết mời tất cả chúng ta tham dự Dạ Tiệc Sinh Nhật đặc biệt này. Với lòng thành tín, chúng ta khởi hành cùng các mục đồng và các đạo sĩ tiến về Belem, và đồng thanh: “Chúc Mừng Sinh Nhật Hài Nhi Giêsu – Xin tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa.”

 

Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin giúp chúng con kiên trì lữ hành miệt mài, luôn biết sống nghèo khó, vững lòng tin cậy và hết lòng yêu mến Ngài trong mọi hoàn cảnh, để nhờ Con Một Ngài mà chúng con được cứu độ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU