Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Kinh thánh mô tả Thiên Chúa như thế nào?

Tác giả: 
Lại Thế Lãng

 

 

Kinh thánh mô tả Thiên Chúa như thế nào?

 

Tác giả: LM Joseph F. Wimmer, OSA – Lại Thế Lãng chuyển ngữ

 

Có một quan niệm sai lầm rất phổ biến rằng hình ảnh của Thiên Chúa trong Tân Ước rất khác với hình ảnh chúng ta thấy trong Cựu Ước. Theo quan điểm này, Kinh thánh tiếng Do Thái mô tả Thiên Chúa là Đấng Tạo hóa siêu việt hoặc Đấng ban hành luật nghiêm khắc, trừng phạt tội lỗi của dân tộc ương ngạnh.

 

Ngài là Thiên Chúa đã cho phép đám người Babylon xâm chiếm Giêrusalem, cướp bóc và giết hại, đồng thời kéo những người Itraen còn lại đi lưu đày. Ngay cả trong những cảnh thể hiện sự quan tâm của Thiên Chúa đối với dân tộc của mình, Ngài được miêu tả là đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ ở Ai Cập bằng cách nhấn chìm tất cả lực lượng Ai Cập ở Biển Đỏ. Sau đó Ngài trao cho họ Đất Hứa bằng cách cho phép Giôsuê và người của ông giết nhiều người Canaan, những cư dân ngoại giáo trước đây của nó, bắt đầu từ Giêricô.

 

Tất cả những điều này trái ngược với Thiên Chúa trong Tân Ước, Thiên Chúa của lòng thương xót và tình yêu. Vị Thiên Chúa “khác” này đã để cho Con Một của Ngài chết thay cho chúng ta để chúng ta có thể đón nhận Ngài trong đức tin và tình yêu cũng như thừa hưởng hồng ân sự sống vĩnh cửu.

 

Là Cha của Ítraen. Mặc dù những cách giải thích này có phần đúng nhưng chúng cũng rất thiển cận. Thời cổ đại quả thực bạo lực, trong chiến tranh, rất nhiều người thiệt mạng. Nếu dân Ítraen xưa thành công thì thành công của họ là do Thiên Chúa và tình yêu cứu độ của Ngài dành cho họ; nếu không, như trong cuộc xâm lược Giêrusalem của người Babylon và cuộc lưu đày sau đó, thì thất bại của họ được coi là sự trừng phạt của thần thánh. Những bản văn này nhằm mục đích cho thấy sự cần thiết của lòng trung thành hoàn toàn của dân Ítraen đối với Chúa là Thiên Chúa của họ. Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh tiếng Do thái không chỉ là một đấng sáng tạo xa cách, một chiến binh bất khả chiến bại hay một nhà lập pháp nghiêm khắc. Ngài cũng là Cha của dân Ngài, những người mà Ngài yêu quý như những đứa con yêu dấu của mình. Chẳng hạn, ngay cả khi Môsê quở trách dân vì sự không chung thủy của họ, Ngài cũng kêu gọi vị trí đặc biệt của Ítraen trong trái tim Thiên Chúa: “Hỡi dân tộc ngu si khờ dại, ngươi đáp đền ơn ĐỨC CHÚA vậy sao? Há chính Người chẳng phải cha ngươi, Đấng dựng nên ngươi, Đấng tạo thành, củng cố? (Đệ Nhị Luật 32:6).

 

Tương tự như vậy, trong Sách Giêrêmia, Thiên Chúa quở trách dân Ngài như một người Cha nói với con cái mình: Từ bây giờ, ngươi lại không xưng hô với Ta thế này sao: ‘Ngài là thân phụ của con, …?’ rồi, ngươi tiếp tục làm điều gian ác” (3:4, 5). Sau này, trong một lời tiên tri về sự trở về của dân Ítraen sau thời lưu đày, Giêrêmia công bố một lời khác từ Thiên Chúa: Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi, Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng  .... Vì đối với Ít-ra-en, Ta là một người Cha, còn đối với Ta, Ép-ra-im chính là con trưởng.” (31:9). Cuối cùng, Thánh vinh 68:6 nói về Thiên Chúa làCha nuôi dưỡng cô nhi, Đấng đỡ bênh quả phụ”.

 

Cũng có những lúc người ta gọi Thiên Chúa là Cha trong lời cầu nguyện của mình: lạy Ðức Chúa, Ngài là Cha chúng con; chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài, chính tay Ngài đã làm ra tất cả chúng con. (Is 64:7). “Chẳng lẽ Ngài không còn động lòng thương con nữa? Quả chính Ngài là Cha chúng con”! (63: 15, 16). Tất cả chúng ta chẳng có cùng một cha sao? Chẳng phải cùng một Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta sao? (Malakhi 2:10).

 

Cựu Ước cũng cho thấy Thiên Chúa huấn luyện dân Íteaen như một người cha dạy dỗ con mình: “Anh em phải nhận biết rằng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, giáo dục anh em, như một người giáo dục con mình (Đệ nhị luật 8:5). “Như người cha thương xót con cái mình, Chúa cũng thương xót những người kính sợ Ngài” (Tv 103:13).

 

Lạy Cha trên Trời. Mặc dù có những đoạn văn hay trong Cựu Ước về Thiên Chúa là Cha, nhưng chúng không nhiều so với Tân Ước – và đặc biệt là các Tin Mừng. Đối với Chúa Giêsu, hình ảnh Thiên Chúa là Cha là điều tối quan trọng. Ngài hiểu Thiên Chúa là người Cha yêu thương, sẵn sàng tha tội. Ngài từng nói với các môn đệ: “Khi anh em đứng cầu nguyện, nếu anh em có chuyện bất bình với ai, thì hãy tha thứ cho họ, để Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng tha lỗi cho anh em. (Mc 11:25). Tha thứ cũng là đức tính thiết yếu mà Chúa Giêsu kêu gọi khi dạy chúng ta cầu nguyện: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời. . . xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con; (Mt 6:9, 12). Và trong dụ ngôn về đứa con hoang đàng, Chúa Giêsu nêu bật lòng thương xót của người cha đối với đứa con ngỗ ngược của mình, cũng như lời thúc giục của ông rằng người con cả cũng phải thể hiện sự tha thứ và yêu thương như vậy (Lc 15:11-32).

 

Ngoài việc báo hiệu sự sẵn sàng tha thứ của Thiên Chúa, tước hiệu “Cha” trong Tân Ước còn biểu thị tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Trong Mátthêu 10:29-30, Chúa Giêsu nói: “Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi..” Chúa Giêsu cũng hứa rằng những lời cầu nguyện nhân danh Cha Ngài chắc chắn sẽ được nhậm: “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho (18:19). Ngài thậm chí còn đảm bảo với chúng ta rằng: “Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó (6:32). Rõ ràng, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy một Thiên Chúa yêu thương chúng ta sâu sắc và muốn biến chúng ta thành những người đặc biệt của Ngài, những đứa con đẹp lòng Ngài.

 

 “Chúa Cha và Ta là một.” Không chỉ những người theo Chúa Giêsu mới được thoải mái gọi Thiên Chúa là Cha của họ. Chính Chúa Giêsu đã cầu nguyện Thiên Chúa là “Cha”. Có lần Ngài nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. (Lc 10:21). Sau đó, như thể lời cầu nguyện đó chưa đủ rõ ràng, Ngài tiếp tục nói về mối quan hệ mật thiết giữa Ngài với Chúa Cha: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho (10:22). Một trong những dấu chỉ mạnh mẽ nhất về mối quan hệ của Chúa Giêsu với Chúa Cha là lúc Ngài chịu phép rửa ở sông Giođan và lúc Ngài biến hình. Trong cả hai trường hợp, chính Chúa Cha đã công bố Chúa Giêsu là “Con yêu dấu” của Người (Mt 3:17, Mc 9:7) và là “Con được chọn” (Lc 9:35).

 

Các sách Tin Mừng được viết bằng tiếng Hy Lạp, mặc dù Chúa Giêsu đã nói bằng tiếng Aram và tiếng Do Thái. Chúng ta không biết từ ngữ nằm bên dưới từ “cha” trong tiếng Hy Lạp, patêr, không chỉ là từ “cha” trong tiếng Do Thái, mà còn là tước hiệu Aram rất đặc biệt Abba hoặc Papá. Chúng ta biết rằng trong Máccô 14:36 ​​đã cố gắng cung cấp cho chúng ta thuật ngữ Aram trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong Vườn Ghếtsêmani: “Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn Bằng cách sử dụng từ rất đặc biệt này trong bối cảnh Ngài đã hoàn toàn đầu phục ý muốn của Thiên Chúa, Chúa Giêsu cho thấy Ngài gắn bó mật thiết với Cha Ngài như thế nào. Sau này, bằng cách áp dụng cách xưng hô mới mẻ và táo bạo này với Thiên Chúa trong thư gửi tín hữu Rôma 8:15 và Gl 4:6, Thánh Phaolô đã cho thấy rằng tất cả chúng ta đều có thể trải nghiệm một mức độ thân mật mới với Thiên Chúa nhờ ân sủng thiêng liêng.

 

Sự vĩ đại siêu việt của Chúa Giêsu có lẽ được thể hiện rõ ràng nhất trong Tin Mừng Gioan. Chúa Giêsu không chỉ lặp lại câu “Ta là Đấng Hiện Hữu” của Đức Giêhôva trong sách Xuất hành 3:14 trong Gioan 8:58, mà Ngài còn trả lời một nhóm người Do Thái muốn biết Ngài thực sự là ai. nói: “Tôi và Chúa Cha là một” (10:30). Không có gì ngạc nhiên khi Gioan bắt đầu Phúc Âm của mình bằng câu nói: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. (1:1). Tương tự như vậy, Tôma, sau khi được Chúa phục sinh yêu cầu xỏ ngón tay vào các dấu đinh và ngọn giáo đâm, đã khiêm tốn nói với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! (20:28).

 

Cầu mong tất cả chúng ta nên một. Rõ ràng, Chúa Giêsu là Thánh tử của Cha trên trời. Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng đã mạc khải Ngài trong suốt Kinh Thánh là Cha của chúng ta, Đấng thay thế cha của một đứa trẻ mồ côi, Đấng dẫn dắt Ítraen “con đầu lòng” của Ngài thoát khỏi cảnh nô lệ ở Ai Cập và sau đó giải cứu các con cái Ngài khỏi cuộc lưu đày ở Babylon.

 

Với tư cách là một người Cha nhân lành, Thiên Chúa cho phép dân Ítraen bị trừng phạt và kỷ luật khi cần thiết, nhưng Người cũng có lòng thương xót đối với con cái của mình, đối với tất cả những ai yêu mến Người với lòng kính sợ. Nếu Cựu Ước nhấn mạnh đến sự gần gũi của Người với mọi người—“ Có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người?”(Đệ nhị luật 4: 7)- Tân Ước còn hơn thế nữa!

 

Với tư cách là Cha, Thiên Chúa đến gặp chúng ta khi chúng ta quay về với Người để ăn năn. Người đã trìu mến đếm từng sợi tóc trên đầu chúng ta và biết chúng ta cần gì trước khi cầu xin. Bằng việc sai Con của Người thực hiện công cuộc mạc khải và cứu độ, Thiên Chúa hứa, khi Chúa Giêsu cầu nguyện, “Để họ được nên một như chúng ta là một. Con ở trong họ và Cha ở trong con, (Ga 17:22-23).

 

Vì tất cả những lý do này và hơn thế nữa, chúng ta thực sự có thể cầu nguyện với Chúa Giêsu: “Lạy Cha chúng con . . .  ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”(Mt 6:9, 10).