Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Giêsu : Người lòng tôi yêu dấu - Thực hành Lời Chúa

Tác giả: 
Huệ Minh

 

 

22.7 Thánh Maria Mađalêna

St 6:1-4,6-8; Tv 50:5-6,8-9,16-17,21,23; Mt 12:38-42

 

Giêsu : Người lòng tôi yêu dấu

 

Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh nữ Maria Mađalêna. Sứ điệp Lời Chúa trong ngày lễ kính nhớ thánh nữ cho chúng ta nhiều góc nhìn.

 

Tuy nhiên, từ sách Diễm Ca trong bài đọc một như mở ra cho chúng ta một hướng nhìn để cùng cảm nhận với chị thánh, khi viết “Suốt đêm trường tôi tìm người lòng tôi yêu dấu …. Các anh có thấy chăng người lòng tôi yêu dấu ?” (Dc 3:1-4)

 

Câu này trong sách Diễm Ca đã có thể diễn tả nỗi niềm khắc khoải của Maria Mađalêna. Chị đã khắc khỏai đi tìm Ngài, Đấng đã đi tìm chị và phục hồi cho chị tất cả những gì là cao quý nhất trong phẩm giá của một con người. Cuôc đời của chị sẽ chỉ trở nên trọn vẹn khi có Ngài. Đấng ấy, Đấng mà chị đang khắc khoải kiếm tìm, đã bị chôn vùi trong nấm mộ như chị đã biết. Nhưng tình yêu đã không ngăn được người phụ nữ chân yếu tay mềm kia lên đường tìm kiếm Ngài, với khát mong là được nhìn thấy Ngài, cho dẫu là một thân xác đã bị chôn vùi trong mộ. “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây…” (Mc 16:3).

 

Vâng, dẫu biết Chúa đã được mai táng trong mồ, dẫu biết Chúa đã chết thật, và dẫu biết rằng tảng đá lấp cửa mồ quá to, nhưng Maria vẫn đến. Cái khắc khoải tìm “người lòng tôi yêu dấu” đã đưa Maria lên đường đi tìm Ngài.

 

Niềm khát mong đó, cộng với nỗi đau đớn sầu buồn mà Maria và các môn đệ Chúa vừa trải qua, đã làm cho chị không còn đủ tỉnh táo để nhận ra Chúa nữa. Dòng lệ sầu buồn đã làm nhòa đi tất cả. Ánh mắt Maria đã chỉ còn chăm chú nhìn vào trong mộ, nơi đã đặt xác Chúa. Có chăng những sầu muộn buồn phiền, khiến mỗi chúng ta cũng giống như Maria đã không còn đủ tỉnh táo để nhận ra tiếng Chúa, nhận ra sự hiện diện của Chúa trong những khó khăn mà thế giới chúng ta đang phải đối mặt, giữa lúc dịch bệnh vẫn đang hoành hành? Như chính Chúa đã hỏi Maria: “Này bà, sao bà khóc, bà tìm ai?” (Ga 20,15). Dòng lệ nhoà giữa nỗi buồn nặng trĩu trong lòng đã khiến cho Maria thật không còn nhận ra Đấng bà đang tìm kiếm nữa.

 

Tuy buồn là thế, xong lại có một điều khiến cho Đấng Phục Sinh cũng như tất cả những ai, khi nghe câu nói này của Maria Mađalêna, đều phải rung động trước tình yêu bà dành cho Chúa. “Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.” (Ga 20:15). Trong cái giờ phút mà Maria đang khắc khoải tìm “Người lòng ‘mình’ yêu dấu” đó, thì tại sao bà không hỏi rõ với “người làm vườn” rằng: “thưa ông, nếu ông đã đem Chúa Giêsu của tôi đi….” mà chỉ đơn giản xưng bằng đại từ “Người” xem ra rất chung như thế. Đó chính là vì, đối với Maria thì Đức Giêsu đã trở nên thân thương đến mức tràn ngập tâm hồn, đến mức mà bà nghĩ rằng chỉ cần hỏi về “Người”  thôi, thì ai cũng biết, ai cũng hiểu, như chính bà hiểu, cảm và biết về Người.

 

Thế đó, tâm hồn Maria tràn đầy lòng mến cho Chúa Giêsu, thế giới trong bà là Chúa Giêsu. Cảm nhận của bà là cảm nhận Giêsu, nó sống động và tràn đầy đến mức như điều mà nhà thơ Tagore đã mong ước:  “Chỉ mong tôi thôi chẳng còn chi, cho tôi gọi Người: là tất cả của tôi. Chỉ mong tôi thôi chẳng còn chi, để cảm thấy Người ở mọi chốn mọi nơi. Đến với Người trong mọi thứ mọi điều, và sẵn sàng dâng hiến, dâng trọn tình tôi.” (Thơ Tagore).

 

Vâng đối với Maria thì niềm mong ước đó đã một lần là hiện thực, đã một lần có Thầy Giêsu trọn vẹn là lẽ sống, là tình yêu và “là tất cả”. Và dĩ nhiên, Maria cũng nghĩ “Người”, Đấng bao trùm toàn bộ tâm hồn và cuộc đời bà, Đấng ấy, khi chỉ cần xưng “Người” thôi, ai cũng biết bà đang muốn nói về ai.

 

Vâng, nhờ cảm nhận tình yêu đó, bà xứng đáng được chính Đấng Phục Sinh, “Người giữ vườn” mà bà đang hỏi đó, gọi đích danh “Maria” với tất cả sự trìu mến. Thế giới trong Maria vụt sống lại, như trước đây đã một lần sống lại từ bùn đen tội lỗi và sự chết. Dòng lệ nhòa đôi mắt kia giờ đã được lau khô. Thay vào đó là một tình yêu chữa lành, một tình yêu biến đổi. Biến đổi bóng tối thành ánh sáng, gian dối nên sự thật, hận thù thành yêu thương, và sự chết thành sự sống. Tình yêu đó có tên gọi là Giêsu – “Người lòng tôi yêu dấu.”

 

Maria Mađalêna là mẫu gương cho chúng ta, mẫu gương với tình yêu nồng nhiệt đi tìm Chúa, một tình yêu luôn thao thức muốn được sống gần bên Chúa. Và vì thế mà sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, Maria vội vàng lên đường đi tìm Chúa. Ðây là quan tâm đầu tiên, quan tâm có ưu tiên trong cuộc sống của Maria, và khi chưa tìm được đối tượng là Chúa Giêsu trong ngôi mộ đã an táng Chúa, Maria đứng ngoài và khóc.

 

Chúa Giêsu phục sinh đã không để cho Maria gặp thử thách lâu. Chúa đến với Maria và gọi đích danh bà, rồi biến đổi cuộc đời từ bên trong để sai bà đi làm người chứng đầu tiên cho Ðấng phục sinh nơi các môn đệ Chúa. Trong biến cố được ghi lại trong đoạn Phúc Âm chúng ta vừa đọc lại trên đây, chúng ta thấy rằng để gặp được Chúa Giêsu, những cố gắng riêng của con người không mà thôi thì chưa đủ. Chính Chúa Giêsu phục sinh là người đi bước đầu, Chúa hiện ra và gọi: Maria. Chúa đáp lại thiện ý và cố gắng của Maria. Chúa luôn làm như vậy với tất cả những ai thành tâm tìm Chúa.

 

Hôm nay mừng lễ Thánh Nữ, chúng ta hãy hợp nhau cùng thánh nữ Maria Mađalêna, dõi tìm Đấng lòng ta yêu dấu. Hãy thổn thức với Người yêu dấu, trong nguyện cầu, tâm tư ước vọng của chúng ta. Để như xưa ngài đã phục sinh thánh nữ Maria Mađalêna, xin Ngài cũng ban cho chúng ta mỗi người sức sống mới. Để hồn an xác mạnh, chúng ta mỗi người cùng với thánh nữ Maria Mađalêna có đủ sức thưa lên: Rapbuni – Lạy Thầy; và một lần nữa chúng ta lại cảm nhận: “cho tôi gọi Người là tất cả của tôi.” Amen.

 

************

 

23.7  Thứ Ba trong tuần thứ Mười Sáu Mùa Quanh Năm

St 7:14-15,18-20; Tv 85:2-4,5-6,7-8; Mt 12:46-50

 

Thực Hành Lời Chúa

 

Mỗi tác giả Tin Mừng đều có một lối giải thích về thái độ của Chúa Giêsu đối với gia đình của Ngài, và sự khẳng định về tình liên đới của Ngài đối với gia đình thiêng liêng gồm những ai thực thi ý Chúa. Ðối với thánh Marcô, thái độ của Chúa Giêsu được tỏ ra sau khi Chúa chọn Nhóm Mười Hai. Trong Nhóm Mười Hai đã có một cuộc tranh cãi sôi nổi về chuyện ai sẽ được ngồi bên tả hay bên hữu Chúa Giêsu; những người có họ hàng với Ngài dĩ nhiên nuôi nhiều hy vọng hơn. Chính trong bối cảnh đó, Chúa Giêsu khẳng định trong Nước Ngài, quan hệ máu mủ ruột thịt không quan trọng bằng niềm tin; gần gũi với Ngài không đương nhiên là bà con ruột thịt, mà chính là những ai thực thi ý Chúa.

 

Trong Tin Mừng Luca, thì thái độ của Chúa Giêsu đối với gia đình ruột thịt của Ngài được ghi lại như một kết luận của toàn bộ những lời giảng dạy của Ngài về Nước Chúa, cũng như những điều kiện để thuộc về Nước Chúa. Như vậy, đối với Luca, chỉ có việc lắng nghe và thực thi Lời Chúa mới thực sự làm cho con người được đi vào quan hệ mật thiết với Chúa Giêsu.

 

Ðoạn Tin Mừng hôm nay là phần kết luận của trình thuật về cuộc chiến đấu giữa thần khí Chúa và thần khí ma quỉ. Ma quỉ vốn làm cho con người ra câm điếc đối với Lời Chúa; do đó, như người câm được Chúa Giêsu chữa lành, con người cũng cần phải được tháo cởi khỏi xiềng xích của ma quỉ mới có thể lắng nghe được Lời Chúa và thần khí của Ngài. Ðức Maria chính là mẫu mực của con người không hề bị giam hãm trong xiềng xích của ma quỉ. Mẹ luôn luôn lắng nghe và đáp trả Lời Chúa. Chính vì lắng nghe Lời Chúa mà Mẹ đã cưu mang Con Chúa; nơi Mẹ, quan hệ máu mủ ruột thịt với Chúa Giêsu được xây dựng trên chính thái độ lắng nghe Lời Chúa; Mẹ chỉ là Mẹ Chúa Giêsu, bởi vị Mẹ đã lắng nghe Lời Chúa.

 

Thánh Giacôbê so sánh Thánh Kinh như một cái gương. Khi chúng ta đọc Lời Chúa, hoặc khi chúng ta nghe Lời Chúa được công bố trong Thánh Lễ, chúng ta thường nhìn thấy chính chúng ta trong những câu chuyện và những giáo huấn mà Thánh Kinh chứa đựng. Thánh Kinh giúp chúng ta “phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người”, cả những tư tưởng tốt cũng như tư tưởng không tốt (Hr 4,12). Thánh Kinh có thể vạch trần sự kiêu hãnh của chúng ta, chạm trán với sự căm phẫn của chúng ta, hoặc phơi bày sự dối trá, tính tham lam hoặc ghen tương của chúng ta. Nhưng đồng thời, Thánh Kinh cũng bảo đảm với chúng ta rằng Thiên Chúa đã sáng tạo chúng ta theo hình ảnh của Người. Nó thuyết phục chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta và rằng ân sủng của Người không chỉ đủ mà con dư tràn để biến đổi chúng ta.

 

Không quan trọng biết bao ân sủng Thiên Chúa ban cho chúng ta, nhưng thánh Giacôbê nói rằng chỉ nghe Lời Thiên Chúa thôi thì không đủ – không phải nếu chúng ta muốn nhìn thấy bất cứ sự thay đổi ý nghĩa nào trong những lĩnh vực tội lỗi của cuộc sống chúng ta. Tương tự, chỉ nghe Lời của Thiên Chúa thôi sẽ không dẫn đến sự lớn lên trong ân sủng và trong các nhân đức của chúng ta. Chúng ta phải vừa là “người lắng nghe” vừa là “người thực hành” Lời Thiên Chúa (Gc 1,22).

 

Thánh Giacôbê cho chúng ta một hình ảnh tuyệt vời để giúp chúng ta thực hành điểm này: người lắng nghe mà không thực hành Lời Thiên Chúa “thì giống như người soi gương thấy khuôn mặt tự nhiên của mình. Người ấy soi gương rồi đi và quên ngay không nhớ mặt mình thế nào” (Gc 1,23-24). Ở đây thánh Giacôbê không đang nói về trí nhớ kém. Thánh nhân đang nói về những ưu tiên nghèo nàn. Người ta “quên” Thánh Kinh bởi vì họ đã đặt những mối ưu tiên khác trước cả việc đi theo Chúa.

 

Lời Thiên Chúa có sức mạnh để giúp chúng ta – nhưng mức độ tùy theo sự cộng tác của chúng ta với Lời ấy. Vì thế hãy chắc chắn đọc Thánh Kinh mỗi ngày. Nhưng cũng hãy chắc chắn để quyết tâm một bước hành động mà bạn có thể thực hiện dựa trên những gì bạn đã đọc. Rồi, bạn hãy dâng ngày sống của bạn để nhận lấy một bước khác bất cứ khi na có cơ hội. Hãy để cho Lời Chúa giúp bạn nói không với tội lỗi và thưa vâng với Thiên Chúa hôm nay. Nếu bạn thực hành, bạn sẽ được “chúc lành” ngoài sự mong đợi của bạn (Gc 1,25)!

 

Chúa Giêsu đã đề cao thái độ của Mẹ Maria, để từ đó nói lên mối giây liên kết đích thực trong gia đình Giáo Hội mà Ngài sẽ thiết lập. Hầu hết các tôn giáo đều dựa trên gia đình như là cộng đoàn nền tảng nhất. Truyền thống khôn ngoan và luật Do Thái luôn đề cao tầm quan trọng của gia đình. Chúa Giêsu xem ra đã làm một cuộc cách mạng táo bạo khi xây dựng tôn giáo của Ngài, không dựa trên mạng lưới những quan hệ gia đình, mà trên nền tảng của sự tự do. Trong gia đình Giáo Hội, con người trở nên thân thiết với nhau, không nhất thiết nhờ máu mủ ruột thịt, mà do chính niềm tin.

 

Dĩ nhiên, gia đình tự nhiên vốn là nơi con người đón nhận và nuôi dưỡng đời sống đức tin; gia đình là trường học đầu tiên về cung cách làm người cũng như sự trưởng thành trong đức tin. Chúa Giêsu không bao giờ chối bỏ vai trò ấy của gia đình. Cộng đoàn xã hội, nhất là xã hội gia đình là môi trường cần thiết giúp con người đón nhận và phát huy đức tin.

 

Khi đề cao thái độ lắng nghe và thực thi Lời Chúa của Ðức Maria, Chúa Giêsu muốn chúng ta thấy rằng đức tin là sự gặp gỡ cá biệt giữa con người với Thiên Chúa, đó là cuộc gặp gỡ của mỗi người mà không ai có thể thay thế được. Càng sống Lời Chúa, càng đi sâu vào sự thân tình với Chúa, con người càng nhận ra tương quan của mình với tha nhân. Hai giới răn mến Chúa và yêu người gắn liền mật thiết với nhau là thế đó: người yêu mến Chúa một cách nồng nàn không thể không yêu thương người anh em của mình, trái lại, lòng bác ái đối với tha nhân cũng không thể không làm cho con người thêm gần gũi với Chúa hơn.