Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Vinh quang Thiên Chúa

Tác giả: 
Nguyễn Văn Nội

 

 

VINH QUANG CỦA THIÊN CHÚA   

  

[CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH NĂM C (06/01/2013]

[Is 60,1-6; Ep 3,2-3a.5-6; Mt 2,1-12]

 

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ

 

Lễ Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh đều là những biến cố tỏ bày VINH QUANG CỦA THIÊN CHÚA. Trước hết là với dân riêng Ít-ra-en. Kế đến là với các dân tộc khác mà chúng ta thường gọi là dân ngoại. Thật ra thì không có dân tộc nào là ở ngoài Lòng Yêu Thương bao la và vĩnh cửu của Thiên Chúa cả, vì đối với Thiên Chúa thì không có cảnh “người ở trong”, “kẻ ở ngoài” mà tất cả đều là người trong nhà cả. Sự khác biệt chỉ là về thời gian mà mầu nhiệm thâm sâu của Thiên Chúa được mạc khải trọn vẹn mà thôi. Đó chính là ý nghĩa của Lễ Hiển Linh hôm nay. Các bài đọc Thánh Kinh sẽ giúp chúng ta hiểu rõ điều ấy!

 

II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

 

2.1 Bài đọc 1 (Is 60, 1- 6): Vinh quang của Đức Chúa chiếu tỏa trên ngươi.

 

1 Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. 2 Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. 3 Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. 4 Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông. 5 Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. 6 Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha: tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa.

 

2.2 Bài đọc 2 (Ep 3, 2- 3a. 5-6): Nay mầu nhiệm được mặc khải là các dân ngoại cùng được thừa kế gia nghiệp.

 

2 Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã ủy thác cho tôi, liên quan đến anh em. 3 Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Ki-tô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây. 5 Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người. 6 Mầu nhiệm đó là: trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.

 

2.3 Bài Tin Mừng (Mt 2, 1-12): Từ phương Đông chúng tôi đến bái lạy Người.

 

1 Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem, 2 và hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người." 3 Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. 4 Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. 5 Họ trả lời: "Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: 6 "Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời."

 

7 Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. 8 Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." 9 Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. 10 Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. 11 Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. 12 Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.

 

 

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

 

3.1 Chân dung Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?)    

 

3.1.1 Bài đọc 1 (Is 60,1-6) là những lời tiên tri của ngôn sứ I-sai-a nói về cảnh huy hoàng của thành Giê-ru-sa-lem trong ngày Thiên Chúa tỏ mình ra với dân. Cảnh huy hoàng phải được hiểu theo nghĩa tôn giáo và tâm linh nên chỉ bằng con mắt đức tin, chúng ta mới nhìn thấy được vẻ huy hoàng ấy. Chúng ta phải đặt lời sấm ngôn của I-sai-a vào bối cảnh dân Ít-ra-en đang sống cảnh lưu đầy Ba-by-lon mới thấy hết tầm vóc của lời sấm!

 

àTrong đoạn Is 60,1-6 trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng đã yêu thương Dân riêng của Người như thế nào khi Người có cả một kế hoạch tuyệt vời từ đời đời để biến Giê-ru-sa-lem thành trung tâm của cuộc tập họp của các dân, các nước trong vui mừng hân hoan không sao tả hết. Thành Giê-ru-sa-lem tượng trưng cho Dân Chúa (là Ít-ra-en cũ và mới) và cho từng tâm hồn, từng cộng đoàn tôn thờ Thiên Chúa.

 

3.1.2 Bài đọc 2 (Ep 3,2-3a.5-6) là những dòng tuyệt vời của Thánh Phao-lô Tông đồ, về kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa là mạc khải từng bước Chương Trình Cứu Độ của Người, trong đó dân ngoại được cùng thừa kế Mầu Nhiệm Nước Trời với người Do Thái. Đây quả là quả bom gây chấn động trong thế giới Do Thái giáo và là niềm vui cho các dân tộc ngoài Do Thái. 

 

àQua đoạn thư Ep 3, 2-3a.5-6 trên, chúng ta nhận ra Thiên Chúa có Tình Yêu bao la và  là Đấng Quan Phòng kỳ diệu. Thiên Chúa biết con người có nhiều giới hạn về không gian, thời gian, về trình độ văn hóa và tâm linh, nên Ngài tỏ mình ra cách tiệm tiến và có tiến trình đàng hoàng cho phù hợp với trình độ tiếp nhận của con người.  

 

3.1.3 Bài Tin Mừng (Mt 2, 1-12) là tường thuật về một biến cố “rất quan trọng” đã xẩy ra trong những ngày đầu đời của Chúa Giê-su. Biến cố này có thể nói là khởi điểm và trọng tâm của Mầu Nhiệm Nhập Thể: Thiên Chúa mạc khải mình cho dân ngoại.

 

àThật vậy, qua đoạn Phúc Âm Mt 2,1-12 này, Thiên Chúa là Thiên Chúa không chỉ của riêng dân tộc Do Thái mà Người là Thiên Chúa của hết mọi dân tộc trên mặt địa cầu này. Các nhà chiêm tinh Phương Đông được mạc khải và nhìn nhận Hài Nhi Giê-su chẳng những là Vua dân Do Thái mà còn là Vua của mọi dân tộc khác trên trái đất này.

 

3.2 Sứ điệp Lời Chúa (Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?)    

 

Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay có ba ý: ý thứ nhất là giáo lý, hai ý sau là thực hành:

 

Ý thứ nhất: Vua Dân Do-thái cũng là Vua các Dân Ngoại (tức Vua muôn dân) đã sinh ra tại Bê-lem. Đó là Hài Nhi Giê-su, con Đức Ma-ri-a. Ngài xuất hiện trong thân phận trẻ thơ, yếu ớt, mỏng manh, vô hại. Thế mà Ngài lại bị người đời (là quyền lực trần gian) tìm cách giết hại. Ngay từ những ngày đầu tiên đời sống trần thế, Chúa Giê-su đã bị kết án và mãi sau này bản án ấy mới được gắn trên đầu Ngài khi Ngài bị treo trên Thập Giá: “Giê-su Vua Dân Do-thái” (Mt 27,37).

 

Ý thứ hai: Thiên Chúa mời gọi hết mọi người tìm đến với Đức Giê-su và nhìn nhận thờ lạy Ngài là Con Thiên Chúa và dâng tiến lễ vật quý giá nhất cho Ngài như các nhà chiêm tinh Phương Đông. Điều quan trọng là mỗi người nhận ra những ngôi sao dẫn đường của riêng mình. Đó có thể là một con người, một cuốn sách, một cuốn phim, một biến cố, một lời nói mà Thiên Chúa gửi đến cho mỗi người chúng ta.  

 

Ý thứ ba: Thiên Chúa đã dùng những ngôi sao lạ để dẫn đường các nhà chiêm tinh Phương Đông tìm kiếm Chúa Giê-su. Thiên Chúa cũng dùng mỗi người chúng ta làm đèn sáng, làm ngôi sao, làm bảng chỉ đường cho người khác tìm đến Chúa.  

 

IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI

 

4.1 Sống với Thiên Chúa là Đấng thực hiện kế hoạch cứu độ nhân loại nơi Ngôi Lời Nhập Thể là Đức Giê-su con Đức Ma-ri-a. Sống với Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng đã xuống thế làm người để thực thi Ý Cha. Sống với Chúa Thánh Thần là Đấng đồng hành và cộng tác với Chúa Giê-su Ki-tô trong Mầu Nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc!

 

4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa 

 

Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi “kiểm điểm” mình xem:

 

(1°) Tôi tìm kiếm, nhìn nhận và suy phục Chúa Giê-su Cứu Thế như thế nào? (Tìm kiếm, nhìn nhận và suy phục không phải chỉ một lần mà là nhiều lần và liên tục trong cuộc sống của tôi).

 

(2°) Tôi nhậy cảm như thế nào với các “tín hiệu” mà Chúa gửi cho tôi, để tôi nhận ra Dung Mạo, Tấm Lòng và Thánh Ý của Chúa mà yêu mến và thi hành?

 

(3°) Tôi ý thức như thế nào về việc Thiên Chúa dùng tôi như các dấu hiệu hay các bảng chỉ đường, để giúp người khác tìm kiếm, nhìn nhận và tôn thờ Thiên Chúa?

 

V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ LOÀI NGƯỜI

5.1 «Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, cho các Hồng Y, Giám Mục và linh mục, để các ngài luôn hằng say nhiệt thành làm cho vinh quang của Thiên Chúa chiếu tỏa trên các dân tộc.

 

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! 

Đáp:  Xin Chúa nhận lời chúng con! 

 

5.2 «Mầu nhiệm đó là: trong Đức Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các dân ngoại nói chung, cho dân tộc Việt Nam nói riêng, để họ sớm được gia nhập vào cộng đoàn Dân Chúa mà hưởng quyền thừa kế của Thiên Chúa.

 

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! 

Đáp:  Xin Chúa nhận lời chúng con! 

 

5.3 «Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.»  Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho những ai đang tìm kiếm Chúa, để họ sớm gặp được Người mà mến yêu và thờ phượng Người.

 

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! 

Đáp:  Xin Chúa nhận lời chúng con! 

 

5.4 «Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.»  Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho chính chúng ta, để chúng ta ý thức mình cũng được Thiên Chúa dùng làm ngôi sao dẫn đường cho những người xung quanh chưa biết Chúa.

 

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! 

Đáp:  Xin Chúa nhận lời chúng con! 

 

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.