Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Nàng hỡi....biết mấy hân hoan

 

 

Chuyện Phiếm đọc trong tuần Thứ hai Mùa Vọng Năm A 08-12-2013

 

Nàng hỡi....biết mấy hân hoan

khi ta bên nhau lần nữa? Và mắt môi em long lanh

khi nói với anh bằng ngàn lời ru êm ái.

(Nhạc Ngoại Quốc –Lời Việt: Nàng của Duy Quang)

(Mt 19: 16-19)

Có quá đáng chăng? khi bảo rằng: lời ca trên đây là lời nhắn đến với những “nàng” và “chàng” ở chốn gian trần từng có những lời hỏi giống như thế. Hỏi và nhắn, là nhắn và hỏi, rất như sau:

 

Nàng hỡi...Vẫn biết không ai xui ta nên duyên gặp gỡ.
Mà lúc quen nhau ôi ân tình đã bao giờ.
Hỏi rằng em ơi có nhớ?
Nàng hỡi....Biết mấy hân hoan khi ta bên nhau lần nữa,
Và mắt môi em long lanh khi nói với anh bằng ngàn lời ru êm ái.
Nàng hỡi....Vẫn biết không ai xui ta nên duyên gặp gỡ,
Mà lúc quen nhau ôi ân tình đã bao giờ.
Hỏi rằng em ơi có nhớ.”

(Nhạc Ngoại Quốc –Lời Việt: Nàng của Duy Quang)  

 

Có là nhiều chuyện? khi tôi và bạn, ta lại cứ trích và cứ dẫn thêm đôi lời nữa, để còn nhớ:

 

Em ơi! Mặc dù quanh đây lung linh bao nhiêu bóng hình.
Mà vì yêu em nên tim anh vẫn vô tình.
Một trời bao la hương hoa cho ta với mình.
Này em! Em hỡi.... Xin em!
Trở về nơi đây bên anh yên vui cõi đời.
Chỉ mình em thôi riêng anh mơ ước lâu rồi.
Như hình với bóng...không rời...”

(Nhạc Ngoại Quốc –Lời Việt: Nàng của Duy Quang)  

 

Có nhàm chán không? Khi bạn và tôi lại cứ nhắc và cứ nhớ thêm một lần nữa, lời cuối của nhạc bản, cứ bảo rằng:

 

“Nàng hỡi....Biết mấy hân hoan khi ta bên nhau lần nữa
Và mắt môi em long lanh khi nói với anh bằng ngàn lời ru êm ái
Nàng hỡi....Vẫn biết không ai xui ta nên duyên gặp gỡ
Mà lúc quen nhau ôi ân tình đã bao giờ.
Hỏi rằng em ơi có nhớ?

(Nhạc Ngoại Quốc –Lời Việt: Nàng của Duy Quang)  

 

Và, chắc cũng chẳng nhàm và chẳng chán, nếu tôi và bạn lại kéo nhau vào khu vườn truyện có những chuyện, rất nghe quen nhưng hơi lạ để cho vui, như sau:

 

“Một phụ nữ gọi điện thoại kể một câu chuyện nói rằng: cách đây vài năm khi đến thăm người cậu tại trai chăn nuôi ở Billing, tiểu bang Montana, bà có dịp đi ăn tối tại một nhà hàng mà không giữ chỗ trước. Thực khách phải đợi chừng 45 phút, và trước đó đã có nhiều chủ nông trại và các bà vợ xếp hàng đứng chờ.


Ted Turner và người vợ đã ly dị là Jane Fonda vào nhà hàng và muốn có một bàn. Người nữ tiếp viên cho biết là phải đợi 45 phút. Jane Fonda liền hỏi người tiếp viên: “Cô có biết tôi là ai không?” Người nữ tiếp viên trả lời: “Biết chứ, nhưng mà Bà vẫn phải đợi 45 phút”


Jane Fonda lại hỏi: Quản Lý hiện có ở đây không. Khi người quản lý bước ra, ông ta hói khách: Thưa tôi có thể làm gì được không ạ?


Ted Turner và Jane Fonda hỏi: Ông biết chúng tôi là ai chứ? Viên quản lý nhà hàng trả lời: “Biết chứ, nhưng mà những người đến trước cũng đang chờ, tôi không thể sắp chỗ cho hai người  trước họ được”


Ted liền ngỏ ý muốn nói chuyện với chủ tiệm. Khi chủ tiệm bước ra, Jane Fonda lại hỏi: Ông biết tôi là ai không” Chủ tiệm trả lời “Có, biết chứ (bởi vì tôi không quên được kẻ đã đâm sau lưng tôi). Mà ông có biết tôi là ai không? Tôi là chủ nhà hàng này và tôi là cựu chiến binh chiến trường Việt Nam. Ông bà không những không được sắp chỗ ngồi trước những bạn bè và láng giềng của tôi đang đứng đợi ở đây, mà còn không có chỗ tối nay và các tối khác! Chào ông bà! 


Chuyện chỉ xảy ra ở Hoa Kỳ. Một quốc gia thật tuyệt vời phải không? Hay là gì? Với quý vị đọc được chuyện này, đây là chuyện có thật và tên của nhà hàng là: Sir Scott’ Oasis Steakhouse, 204 W. Main, Manhattan, MT. 59741.


Nếu Quý Vị đến đây, xin ngả mũ chào, và thưởng thức một đĩa steak, thưởng cô tiếp viên. Hãy chuyển cho nhau tin này! Chúng ta không bao giờ quên kẻ phản bội đất nước chúng ta.” (Sưu tầm và chuyễn ngữ: Lê Minh Khôi).

 

Vâng. Vui và kể thế rồi, giờ đây bạn cũng như tôi, ta cũng biết mình là ai? Sống thế nào? Nói năng và hành xử ra sao khi nghe đấng bậc nhà đạo mình lại cứ nhắc nhở những câu hỏi rất “băn khoăn” của Đạo Chúa, có lời Vàng Chúa gửi gắm rằng:

 

Bấy giờ có một người đến thưa Đức Giêsu rằng:

"Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời?"

Đức Giêsu đáp:

"Sao anh hỏi tôi về điều tốt?

Chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi.

Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn."

Người ấy hỏi:"Điều răn nào?"

Đức Giêsu đáp:"Ngươi không được giết người.

Ngươi không được ngoại tình.

Ngươi không được trộm cắp.

Ngươi không được làm chứng gian.

Ngươi phải thờ cha kính mẹ", và

"Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình."

(Mt 19: 16-19)

 

Về câu hỏi: “người đồng loại tôi là ai, để phải yêu? Cũng rất nhiều người nhiều vẫn cứ kể. Kể, để trả lời. Trả một lời cho câu hỏi rất thúc bách một “ưu tư” ở đời. Riêng có đấng bậc vị vọng ở Sydney là Lm Andrew Hamilton sj, cũng từng đặt vấn đề, rất như thế. Tuy nhiên, trước khi đi vào vấn đề rất chuyên môn của nhà Đạo, bần đạo thiết tưởng ta cũng nên duyệt qua một lần nữa, câu ca rất ỉ ôi, ai oán, của người nghệ sĩ nay ra người thiên cổ, vẫn cứ nhắn nhủ suốt đời mình:

 

“Em ơi! Mặc dù quanh đây lung linh bao nhiêu bóng hình,
Mà vì yêu em nên tim anh vẫn vô tình.
Một trời bao la hương hoa cho ta với mình,
Này em! Em hỡi....Xin em!
Trở về nơi đây bên anh yên vui cõi đời.
Chỉ mình em thôi riêng anh mơ ước lâu rồi.
Để mình yêu nhau như mây lang thang cuối trời...”

(Nhạc Ngoại Quốc –Lời Việt: Nàng của Duy Quang)  

 

Có quá tải không? khi bạn và tôi, ta cứ nghe những lời nhắn và hỏi như thế suốt chặng đường dài của bài “phiếm” hôm nay? Nếu quả có thế, thì giờ đây, xin bạn và tôi ta đi thẳng vào vấn đề tuy rất hay nhưng dài giòng nhiều triết lý và học về thần, rất thân thương như sau:

 

“Với phần đông Kitô-hữu trong/ngoài Đạo, rõ ràng Lời Chúa còn đó vẫn thúc giục mọi người người một câu duy nhất: "Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình." Yêu thương người đồng loại, gợi nơi ta nhiều ảnh hình. Như, ảnh và hình của thứ tình say đắm giữa Romeo và Juliet. Có thể là, tình anh lính chiến quyết hy sinh cho người trong nước được sống an-bình, hiền-hoà, không sách nhiễu. Hoặc, tình người vợ cao tuổi vẫn chăm lo cho chồng dù ông không còn nhận ra bà là ai. Hoặc, tình nữ-phụ dám nhẩy xuống chỗ nước sâu để cứu đứa trẻ vừa hụt hẫng chết đuối chẳng cần biết trẻ ấy con ai, bao nhiêu tuổi. Ảnh hình này, diễn tả tình thương sâu lắng của một người từng bày tỏ cho người khác, theo cách khác biệt.

 

Thương yêu người đồng loại, lúc nào cũng bao hàm tình cảm sâu sắc nhưng không căng. Ta yêu bạn bè người thân, thật rất gần. Ta còn vui sướng khi được gần gũi các vị ấy và nhớ nhung nhiều khi vắng bóng người mình yêu. Bằng cách nào đi nữa, “yêu người đồng loại” vẫn là cầu chúc cho họ được “mọi sự tốt đẹp”. Là, cảm thông, san sẻ cùng đi với họ chặng đường dài gian nan, khổ ải. Cảm thông/thân chúc cả những không quen mà chỉ gặp gỡ trong ganh đua/ thi đấu ở hiện trường, dù thua hay thắng.

 

Thương yêu, không chỉ là vấn để của cảm xúc, có giác quan. Khi yêu một người, ta còn chứng tỏ cho người ấy thấy ta làm gì cũng vì họ, cho họ. Tình yêu được cân đong đo đếm qua cách thức ta sắp đặt/chuẩn-bị làm mọi việc tốt đẹp cho người đó thay vì mải mê làm chuyện khác, cho riêng mình.

 

Thương yêu người đồng-loại, còn là yêu thương cả những người lạ lẫm ta chưa biết, hệt như đòi hỏi của Tin Mừng. Ở nhiều nơi trên thế-giới, mọi người nhìn nhau bằng cặp mắt rất xa lạ, đôi lúc còn như “muốn ăn tươi nuốt sống, lẫn nhau”. Trong tình cảnh đó, người người vẫn cứ sợ sệt, nghi kỵ lẫn nhau. Coi nhau như người/như vật nguy hiểm, nên xa lánh. Ở Tin Mừng, Chúa dẫn giải bằng thí dụ, hoặc dụ ngôn nói đến trường hợp người ngoài đạo, ngoài nước vẫn “dừng chân đứng lại” dù bận bịu, chỉ để chăm lo cho người bị nạn ở dọc đường. Ở Kinh thánh, Chúa không định nghĩa “ai là người đồng-loại của tôi”, nhưng Ngài lại cứ nhấn mạnh sự-kiện mọi người hãy tự hỏi: Tôi là người đồng-loại, của những ai. Tình ta thương yêu người đồng loại được đo lường bằng sự việc người khác yêu cầu/đòi hỏi ta quan tâm chăm sóc họ đến chừng mực nào, thôi.

 

Nếu hỏi rằng: sao ta cứ phài yêu người đồng-loại tức mọi người khác, chứ không phải là ta? Tuy câu hỏi hơi quá đáng để có thể trả lời cho ngọn ngành; nhưng, tựu trung, câu hỏi hay trả lời đề dẫn về thứ tình ta và mọi người có được từ con tim. Đó, là thứ tình được ta và mọi người diễn tả ra ngoài bằng cảm xúc/giác quan lâu nay mình vẫn có, với người khác. Tức, người được mình quan tâm, chăm sóc, hoặc yêu thương. Nếu hỏi lý do sao ta lại phải yêu như thế, thì người người sẽ coi đó như nghĩa vụ, hơn là tình thương-yêu xuất tự chính mình. Yêu thương người đồng loại, cũng chẳng do Chúa yêu cầu ta làm thế như nghĩa vụ hoặc điều kiện là dân con hiền từ, của Đức Chúa.

 

Người Do-thái-giáo và Kitô-giáo tin rằng: tình thương yêu ta có đối với người dưng khách lạ là thứ tình do lòng cảm kích biết ơn Chúa vì ta cũng là khác lạ người dưng từngđược đối xử như thế, bấy lâu nay. Khi người Do thái sống như khách lạ trên đất Ai Cập vẫn đói khổ, thì Chúa đã cảm kích yêu thương họ. Kinh nghiệm họ từng trải chắc chắn đã đem cho họ cũng một thiện cảm y như thế với người đồng hội đồng thuyền như mình và với mình.

 

Kitô-hữu cũng biết yêu thương người dưng khách lạ do bởi lòng cảm kích biết ơn Chúa về những gì Ngài phú ban cho ta. Thiên Chúa yêu thương mỗi người chúng ta đủ để Ngài gia nhập vào chốn trần gian cùng sống với ta và rồi Ngài còn chết cho ta nữa. Thành ra, tâm tình cảm kích biết ơn ta dành cho CHúa lại cũng tuôn chảy vào tình thương yêu đối với người đồng loại của ta là những người được Chúa thương yêu hết mình Ngài.

 

Thánh Phaolô tong đồ cũng nối kết hai thứ tình thương yêu Chúa và người đồng loại vào với nhau. Thánh-nhân từng nhận ra rằng: là con người, ta được nối kết với Chúa và người đồng-loại do bởi ta là chi thể của Thân Mình CHúa. Tình Chúa đối với tuồn trào vào với tình ta thương yêu các người anh người chị khác. Và, ta diễn tả tình yêu đối với Chúa bằng vào việc quan tâm chăm sóc người đồng loại của ta.

 

Vì thế nên, trọng điểm của niềm tin đi Đạo là “thương yêu người đồng loại”. Nhưng, tình ấy không đứng riêng một mình. Tình ấy không thể tách rời Tình Chúa thương ta và tình ta với người khác, tức đồng loại của ta. Thành ra, ta được mời gọi yêu thương nhau như Đức Giêsu đã thương yêu tất cả chúng ta. Ta còn biết: tình Chúa thương ta đã dẫn đưa Ngài đến cõi chết rất nhục. Thành thử, thương yêu người đồng loại là thứ tình mình đối xử với người dưng khách lạ, không giới hạn. Đó, là yêu cầu và luận điểm vẫn có trong truyện kể về người Samaritanô nhân hiền, tử tế.

 

Cuối cùng thì, khi so sánh tình Chúa yêu ta, thì tình ta thật nhỏ bé, rất yếu kém. Thế nên, có được tình thương sâu lắng, đó không là chọn lựa của ai mà là quà tặng ta có được từ Chúa. Và, chính vì tình thương ta có cách nhưng không như mình muốn hoặc mình đòi, nên thương-yêu-người-đồng-loại còn có nghĩa là: ta mong được tha thứ và chính ta cũng quyết thứ tha hết mọi người. Thương yêu bất cứ ai, cuối cùng còn có nghĩa, là: biết xót thương, nhận lỗi và thứ tha hết mọi người, để được tha thứ mãi suốt đời.” (x. Lm Andrew Hamilton, Tình Yêu Thương, Australian Catholics số đặc biệt Giáng Sinh 20132, tr. 17-20)             

 

À thì ra. “thương-yêu-người-đồng-loại” theo diễn giải của đấng bậc nhà Đạo, rất thật là như thế. Tức, luôn chúc cho bạn bè/người thân cũng như không quen hay không ưa thích “mọi sự tốt đẹp”. Yêu-thương-người-đồng-loại hoặc đại loại như vậy, còn được diễn-tả qua thư từ, tình-tự thầm kín rất lâu như giòng thư yêu-đương của người và của mình, như sau:

 

“Dao Ánh thân mến,

Cơn mơ kéo anh trở dậy vào lúc 3 giờ sáng. Bây giờ đồi núi Blao còn đêm mù sương và im lìm ngủ. Anh thắp nến trắng viết thư cho Ánh và trùm chăn quanh mình. Miền cao nguyên này lạnh suốt ngày.

Ánh ơi,

Anh hơi lạ lùng, là suốt những ngày lên đây anh thường nằm mơ có Ánh. Có Ánh rất yên lành qua những con đường xa lạ của một mùa Hè đã qua mà phượng vẫn còn đỏ ngời. Hình như trời vừa qua một cơn bão lụt nên con đường có vẻ xơ xác. Ánh mặc áo nâu, tóc mềm như mây có cả chiếc nơ màu mâu nhạt cài lên rất huyền hoặc. Anh còn nhớ là suốt con đường đi đó không khí bỗng ấm áp vô cùng. Anh đã trở dậy trong sự trống vắng dai dẳng ở đây...

 Anh có cảm giác mình là một hoá-thân-phiền-muộn lửng lơ trong một khoảng không nào đó. Không là đỉnh cao. Không là vực sâu. Một cái gì mang mang không rõ ràng. Căn nhà anh ở nằm chênh vênh ở một triền dốc. Buổi chiều ở đây chỉ còn tiếng gió hú thật não nuột về ru anh ngủ mà thôi. Anh cảm thấy như mình càng ngày càng đi vào những bất lực và vô vọng to tát hơn. Càng cố vùng vẫy thì càng bị siết lại hay càng bị ngợp chới với hơn.

Bây giờ đã xa tất cả. Anh em. Người thân. Bạn bè. Vùng đất này như một miền bỏ hoang mà anh đã hiện diện ở đây làm loài củi mục. Suốt ngày im câm như một số phần không tên, không tuổi, không còn dĩ-vãng – tương lai. Ngôn ngữ nào của đô thị, của thành phố ở dưới kia mà anh ao ước được nghe lại, được nói lại vô cùng Ánh ạ.

Hôm nay anh lên Đà Lạt (trước khi về đây), gặp Kim Vui (ca sĩ) lấy xe đưa anh đi chơi quanh thành phố đến khuya. Buổi chiều sắp tới anh có thấy thoáng ai giống như Vũ – anh gọi mà không nghe. Ở đây đi Đà Lạt và Sài gòn rất gần. Nhưng anh vẫn thấy có gì cách biệt xa xôi như không liên hệ gì với nhau. Đêm ở đây anh thường vào ngủ sớm (9 giờ) bởi vì thành phố không có một sinh hoạt vui chơi nào.

Thành phố cũng chưa có số nhà – ban đêm thì tối mù vì chưa có đèn đường. Trông bi đát lắm. Chán lắm Ánh ạ. Suốt ngày, ngoài những giờ làm việc buổi sáng, anh ngồi nhìn chiều về và đêm về trên những con đường dốc đất đỏ, mây thì xuống thật gần thật thấp. Chao ôi là buồn. Có lẽ anh cũng phải tìm cách nào để thoát khỏi nơi đây dù phải làm bất cứ gì để sống. Đời chúng anh phiêu bạt quá nên càng tự du mình ra xa những yên lành cũ. Có lẽ một ngày nào đó Ánh cũng gặp lại anh như gặp lại một sự xa – lạ, một “inconnu”, một “étranger” của một thời nào chưa hề có tên để gọi. Đất đai của chúng anh ở dưới kia, vực thẳm bi đát vừa tráng lệ. Anh mong rằng một ngày nào đó con người sẽ căng nọc mình ra trước toà án công minh của trời đất để thú tội để trả lời với sự sáng suốt trước mặt...

Sau đó. Sau đó sẽ không còn gì hay nếu còn con người thì những người đó yêu thương nhau, yêu chân lý, yêu sự thật, không dối lừa, không gạt gẫm mình, không sống bằng phù phép ảo tưởng. Mọi người bây giờ đang đánh lừa mình bằng ảo tượng. Không ai biết sống thực. Chưa ai biết sống cả Ánh ạ. Trên sân khấu rộng lớn vĩ đại của cuộc đời này, anh đã bắt gặp được dủ loại người: già, trẻ, giàu, sang, hèn, ngu, giỏi. Tất cả đều chạy tìm ảo tưởng. Từ đó, đâm ra phỉnh phờ bởi vì phỉnh phờ là yếu tố chính của những cuộc bán buôn. Nhưng rồi anh nghĩ rằng mọi người đều đáng thương, đều là những tội nhân đáng được ân huệ, tha bổng.

Bây giờ là đêm lại. Tiếng hát Thái Thanh và “Người ra đi” của Phạm Duy thật buồn. Thật buồn. Anh nhớ tất cả những người thân, nhớ vô cùng và thấy ấm ức vô cùng. Đêm đã mù sương ngoài kia. Anh không đủ can đảm để nói mãi chuyện buồn của mình. Ánh đã đi học lại chưa? Mùa thu lá có rụng nhiều ở Huế không?

Làm sao không nhớ những vết tích đã qua. Ôi những gì êm ả đâu còn đâu còn. Anh mong nhận được thư của Ánh về vùng Blao này những mùa lạnh ở đây sẽ ấm cúng hơn. Anh còn cả bao nhiêu tháng ngày rộng mênh mong trải dài cuốn hút đằng trước mặt. Thật ghê rợn như một ám ảnh đen địu.

Bây giờ tháng 9. Anh gởi về cho Ánh sương mù và mây tháng 9 ở đây. Không có quà gì đẹp và buồn hơn nữa cho Ánh.

Anh cầu mong cho Ánh còn vui hoài và bình an vô cùng ở đó.

Anh không biết phải gửi về cho Ánh ở đâu nên gửi nhờ Thuý đem qua hộ. Đừng phiền. Mong tin Ánh và “j’irai pleurer sous la pluie” (Khóc Trong Mưa).

Trịnh Công Sơn

(x. Trịnh Công Sơn, Thư Tình Gửi Một Người, nxb Trẻ 2012, tr. 11-16)

 

“Anh cầu mong cho Ánh còn vui hoài và bình an vô cùng ở đó”. Bình an và vui hoài, hai nhận-thức và cảm-nghiệm về tình “thương-yêu người đồng loại”, vẫn rất cần. Rất đáng để ta thương.

Phiếm-luận hôm nay, bần đạo không còn muốn luận và cũng chẳng muốn phiếm gì thêm nữa. Mà, chỉ muốn trích/dịch và dẫn-chứng những lời lẽ về tình “thương-yêu-người-đồng-loại”, rất đáng yêu. Trích dẫn rồi, việc còn lại xin để bạn bè/người thân cứ thế mà cảm và nghiệm, những tình thân thương của người mình, rất đồng loại. 

Minh định rồi, giờ đây bần đạo mời bạn và mời tôi, ta nghe thêm chút nữa, những lời lẽ rất thân và cũng rất thương của người nghệ sĩ, như đang thở. Thở, một tình “thương-yêu (rất) đồng loại”, rằng:

 

“Này em! Em hỡi....em ơi
Mặc dù quanh đây lung linh bao nhiêu bóng hình
Mà vì yêu em nên tim anh vẫn vô tình
Một trời bao la hương hoa cho ta với mình
Này em! Em hỡi....Xin em
Trở về nơi đây bên anh yên vui cõi đời
Chỉ mình em thôi riêng anh mơ ước lâu rồi
Như hình với bóng...không rời...
Nàng hỡi....”

(Duy Quang - bđd)  

 

Thở và thương mãi thế rồi, hơi bạn và tôi, ta cũng hãy nhận ra thế nào là “thương yêu người rất đồng loại”, cũng sẽ thấy ý-nghĩa của nhu-cầu “yêu-thương-người-đồng-loại” là mục tiêu sống cho ta và cho người, cả bạn bè/người thân lẫn người mình không quen biết để cầu chúc tất cả mọi người được “mọi sự tốt đẹp”, rất trên đời.

 

 

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ nghe và ngẫm nghĩ

Về tình người

tình thương yêu rất đồng loại

của riêng tôi