Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Hãy đến với muôn dân

Tác giả: 
JM. Lam Thy ĐVD.

NGÀY KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO

 

HÃY ĐẾN VỚI MUÔN DÂN

 

Sứ Điệp Ngày Khánh Nhật Thế Giới Truyền Giáo 2014 được mở đầu bằng đoạn văn: “Ngày nay vẫn có rất nhiều người chưa biết Đức Chúa Giê-su Ki-tô. Vì lý do đó mà sứ vụ ad gentes (rao giảng cho muôn dân) vẫn tiếp tục là sứ vụ cấp bách nhất, trong đó tất cả các phần tử của Hội Thánh được mời gọi tham gia, bởi vì tự bản chất, Hội Thánh là truyền giáo: Hội Thánh được sinh ra “để đi ra.” Ngày Khánh Nhật Thế Giới Truyền Giáo là một thời điểm đặc quyền trong đó các tín hữu của các châu lục khác nhau tham gia bằng lời cầu nguyện và các cử chỉ cụ thể của tinh thần đoàn kết trong việc giúp đỡ các Hội Thánh trẻ trong các xứ truyền giáo. Đây là một cuộc cử hành ân sủng và niềm vui. Ân sủng, bởi vì Chúa Thánh Thần, được Chúa Cha sai đến, ban ơn khôn ngoan và sức mạnh cho những ai vâng phục tác động của Ngài. Niềm vui, bởi vì Đức Chúa Giê-su Ki-tô, Con của Chúa Cha, được sai đến để Phúc Âm hoá thế gian, nâng đỡ và đồng hành với chúng ta trong công việc truyền giáo của chúng ta. Chính vì niềm vui của Chúa Giê-su và của các môn đệ truyền giáo nên tôi muốn đề ra một biểu tượng Thánh Kinh, mà chúng ta tìm thấy trong Tin Mừng Thánh Lu-ca (x. 10, 21-23)”.

 

Khi viết  “sứ vụ  ad gentes”, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô muốn nhắc đến Sắc lệnh “Ad Gentes” (Đến Với Muôn Dân) do Thánh GH Gio-an Phao-lô II ban hành ngày 7/12/1965. Đó chính là sứ vụ căn bản của Hội Thánh: “Đem Tin Mừng đến cho mọi loài thụ tạo”. Vì tính cách trọng đại đó, xin cùng tìm hiểu về sứ vụ Truyền Giáo của Giáo Hội, của mỗi Ki-tô hữu:

 

I.- TRUYỀN GIÁO – TÍNH CHẤT CĂN BẢN CỦA GIÁO HỘI :

 

A- XUẤT PHÁT ĐIỂM VÀ ĐÍCH ĐIỂM CỦA VIỆC TRUYỀN GIÁO : Xuất phát từ lòng nhân từ thương xót vô biên, Thiên Chúa dựng nên loài người có nam có nữ, để làm vinh danh Người và tạo nên hạnh phúc nhân loại. Nói rõ hơn, vì tình yêu, Thiên Chúa ban sự sống cho con người và lại quay lại mời gọi loài người san sẻ tình yêu ấy cho nhau, liên kết nhau thành một dân duy nhất quy hướng về nguồn cội: Thiên Chúa Tình Yêu (tức là khơi nguồn từ “Suối Tình Yêu” Thiên Chúa tuôn trào, để lại trở về với cội nguồn là “Biển Tình Yêu” bao la vô lượng của Thiên Chúa). Dòng chảy không ngừng ấy cũng chính là nguyên lý Thiên Chúa Ba Ngôi cực thánh (“Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo, vì chính Giáo Hội bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần theo Ý Ðịnh của Thiên Chúa Cha. Ý định này tuôn trào từ "suối tình yêu" cũng là lòng thương của Thiên Chúa Cha, vì chính Ngài là Nguyên lý vô Nguyên lý, bởi Ngài mà Chúa Con được sinh ra, và cũng bởi Ngài và nhờ Chúa Con mà phát xuất Chúa Thánh Thần.” – Sắc lệnh về Truyền Giáo “Ad Gentes”, số 2).

 

Chính vì thế, nên chân lý “Thiên Chúa Tình Yêu” vừa là xuất phát điểm, vừa là đích điểm của hoạt động truyền giáo. Công cuộc truyền giáo bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi, được duy trì và tiếp nối từ khi loài người hiện diện trên trái đất. Những Thánh vịnh, Thánh ca, những ngôn từ, sách vở (Kinh Thánh) được lưu truyền rộng rãi, hoặc những hình ảnh về một cây nho, một vườn nho đan tử trong Cựu Ước, minh họa sống động cho điều này. Cho đến khi Thiên Chúa Cha sai Con Một xuống thế thực thi sứ mạng cứu độ nhân loại, thì một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vĩ đại – về truyền giáo được khai sinh. Và cũng từ đó, Giáo Hội được thiết lập như một tiếp nối hành trình của Đức Ki-tô: Con Đường Cứu Rỗi. Rõ ràng, Truyền Giáo tức là tình yêu “nhận về” (eros) – đón nhận Tình Yêu từ Thiên Chúa – và tình yêu “cho đi” (agape) – chia sẻ Tình Yêu ấy cho anh em (“Tuy nhiên, erosagape – tình yêu nhận về và cho đi – không bao giờ có thể hoàn toàn tách rời. Hai thứ tình này, trong những khía cạnh khác nhau của chúng, càng tìm được sự tương đồng thích đáng trong cùng một thực tại tình yêu thì bản chất thực sự của tình yêu càng được nhận ra rõ ràng.” – Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu “Deus Caritas Est”, số 7)

 

B- TÍNH CHẤT CĂN BẢN CỦA GIÁO HỘI TRẦN THẾ : Giáo Hội trần thế còn gọi là Giáo Hội Lữ hành, đó là một cộng đồng Dân Chúa đang trên hành trình tiến về Quê Trời (Giáo Hội Thiên Quốc – GH Khải Hoàn). Vì tính cách tìm kiếm để chiếm hữu được Nước Trời, nên mọi hoạt động của Giáo Hội nơi trần thế đều quy về một hướng: Loan báo Tin Mừng Cứu Độ. Loài người vì được Thiên Chúa ban cho sự tự do đến gần như tuyệt đối, phát sinh kiêu ngạo “muốn bằng Đức Chúa Trời” (câu chuyện “Nguyên Tổ ăn trái cấm” – St 2, 1-7; câu chuyện “xây tháp Babel” – St 11, 1-9…), và vì thế ngày càng đắm chìm trong tội lỗi nhuốc nhơ, trong bóng tối của tử thần. Đức Giê-su Ki-tô nhận lãnh sứ vụ từ Thiên Chúa Cha – qua sự thông hiệp của Chúa Thánh Thần – đã đến trong thế gian để hiện thực hóa sứ vụ rao truyền ơn Cứu Rỗi.

 

Với dụ ngôn “Cây nho và vườn nho”, Đức Giê-su đã dạy cho các môn đệ cũng như cho mọi tín hữu biết tất cả dân Thiên Chúa là những cành nho hút nhựa từ thân cây nho duy nhất là Đức Ki-tô, thì phải có bổn phận trổ sinh hoa trái, đó chính là bổn phận Truyền Giáo. Lệnh truyền: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế." (Mt 28, 19-20), đã minh chứng rằng khi thiết lập Hội Thánh Chúa nơi trần thế, Đức Giê-su đã trao cho Giáo Hội sứ mạng tiếp nối hành trình Cứu Độ mà Người đã thực hiện qua hy tế Thập Giá và sự Phục Sinh vinh hiển, đem lại sự sống vĩnh cửu cho nhân loại.

 

Rõ ràng, tính chất căn bản của Giáo Hội là truyền giáo (“Như thế, rõ ràng là hoạt động truyền giáo bắt nguồn sâu xa từ chính bản tính của Giáo Hội. Nó truyền bá đức tin cứu rỗi của Giáo Hội, hoàn tất sự hiệp nhất công giáo của Giáo Hội bằng cách làm bành trướng sự hiệp nhất này, nó dựa vào tính cách tông truyền của Giáo Hội, nó thể hiện ý nghĩa cộng đoàn của hàng Giáo Phẩm, nó làm chứng, truyền bá và thúc đẩy sự thánh thiện của Giáo Hội” – SL “Ad Gentes”, số 6). Trách vụ của toàn thể Giáo Hội (bao gồm mọi Ki-tô hữu, mọi thành phần Dân Chúa – không phân biệt giáo sĩ hay giáo dân), là phải loan báo Tin Mừng.

 

C- TÍNH CHẤT CÁNH CHUNG CỦA HOẠT ĐỘNG TRUYỀN GIÁO: Hoạt động truyền giáo là trường kỳ, là miên viễn, khơi nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi truyền sang con người là loài thụ tạo, trải qua thời gian từ Cựu Ước tới Tân Ước, và chỉ chấm dứt khi không còn sự hiện diện của loài người trên trần gian (từ Khởi nguyên đến Tận cùng – Alpha và Omega). Nói khác hơn, “… thời gian hoạt động truyền giáo là thời gian ở giữa hai lần Chúa đến; và khi Chúa đến lần thứ hai, Giáo Hội ví như mùa gặt được thu góp vào Nước Chúa từ bốn phương trời. Thực vậy, trước khi Chúa đến, Phúc Âm phải được rao giảng cho mọi dân tộc” (SL “Ad Gentes”, số 9).

 

Vào những thời điểm thuận tiện và cần thiết đáp ứng nhu cầu của thời đại, Giáo Hội thường phát động và mở ra những tiêu điểm truyền giáo, nhằm nhắc nhở và thúc đẩy mọi tín hữu nhớ đến sứ mạng chính yếu của mình, đồng thời tác động vào tiềm năng loan báo Tin Mừng nơi mỗi Ki-tô hữu. Đó chính là lý do các Năm Thánh, Đại Năm Thánh được mở ra, và cho dù có nhiều chủ đề được nêu lên, nhưng tựu trung vẫn là phục vụ cho một mục đích duy nhất mà Hội Thánh Chúa hằng theo đuổi, đó là Truyền Giáo.

 

II.- TRUYỀN GIÁO – SỨ VỤ NHẤT QUÁN CỦA KI-TÔ HỮU:

 

A- KI-TÔ HỮU VỚI 3 CHỨC VỤ CỦA ĐỨC KI-TÔ: Nhờ bí tích Thánh Tẩy, mọi Ki-tô hữu được tháp nhập vào Thân Thể Đức Giê-su Ki-tô, như những cành nho tháp nhập vào thân cây nho duy nhất, hút nhựa và trổ sinh hoa trái. Cũng từ đó, được “trở nên Dân Thiên Chúa và tham dự vào chức vụ Tư tế, Ngôn sứ, Vương giả của Chúa Ki-tô” (Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội “Lumen Gentium”, số 31)

 

1- Tư Tế: (Tư: riêng từng người; Tế: lễ dâng, lễ tế), Tư tế là dâng cuộc sống riêng tư làm của lễ, như Đức Ki-tô trong hy tế thập giá (“Chúa Giê-su Ki-tô, Linh Mục thượng phẩm và vĩnh cửu, vì cũng muốn giáo dân tiếp tục công việc chứng tá và việc phục vụ của mình, nên đã nhờ Thánh Thần ban cho họ sự sống, và không ngừng thôi thúc họ thực hành những điều thiện hảo. Thực vậy, những kẻ mà Người đã cho tham dự mật thiết vào sự sống và sứ mệnh Người, Người cũng cho họ dự phần vào chức vụ tư tế, để họ thực hành việc phụng thờ thiêng liêng hầu tôn vinh Thiên Chúa và cứu rồi loài người. Bởi thế, vì giáo dân đã được hiến dâng cho Chúa Ki-tô và được Thánh Thần xức dầu, nên họ được mời gọi và được ban ơn cách lạ lùng để Thánh Thần sinh hoa trái nơi họ ngày càng phong phú hơn.” (Hc “Lumen Gentium”, số 34).

 

2- Ngôn Sứ: Trước đây, dùng tiếng Tiên Tri (“Tiên tri” là biết trước, ngụ ý: người được Thiên Chúa mạc khải, nên biết trước kết quả việc mình tin theo, làm theo); nhưng về sau dùng tiếng Ngôn sứ để phù hợp và cụ thể hóa chức vụ của Đức Ki-tô khi Người được Chúa Cha sai xuống trần rao giảng Tin Mừng và thực hiện việc cứu độ nhân loại, và đó cũng là lý do gọi mầu nhiệm “Ngôi Hai giáng trần” là “Ngôi Lời nhập thể”. Ngôn sứ có nghĩa là người được sai đi rao giảng Lời Chúa (Ngôn: lời nói, Sứ: được sai đi). Đó chính là công việc loan báo Tin Mừng, mở mang Nước Chúa, mà từ trước khi Chúa Ki-tô giáng trần, Thiên Chúa đã sai những ngôn sứ (thời Cựu Ước) thực hiện. Kể từ khi Chúa Giê-su được Thiên Chúa Cha sai đi như một ngôn sứ, thì Người đã sai toàn thể môn đệ làm những việc mà Người đã và đang làm.

 

Việc được sai đi mang tính tập thể hơn Cựu Ước (“Việc tham gia vào trách vụ rao giảng của Đức Ki-tô ‘là Đấng lấy cả cuộc sống mình cũng như lấy sức mạnh của lời nói để tuyên bố vương quốc Chúa Cha’, sự tham gia này làm cho người giáo dân có đủ năng lực và tư cách dấn thân để nhận lãnh Phúc âm trong Đức Tin, để rao giảng bằng lời nói và hành động, và để tố cáo một cách bạo dạn không do dự những gì là điều ác. Người tín hữu giáo dân hợp nhất với Đức Ki-tô ‘vị Đại Tiên Tri’ (Lc 7, 16) và được đặt làm "chứng nhân" của Đức Ki-tô Phục Sinh trong Chúa Thánh Thần, họ trở thành những người tham dự vào ý thức Đức Tin siêu nhiên của Giáo Hội ‘không thể sai lầm trong Đức Tin’ cũng như tham gia vào ân sủng của lời nói (Acts. 2, 17-18, Ap. 19, 10). Hơn nữa họ được gọi để chiếu sáng sự mới lạ và sức mạnh của Phúc Âm trong đời sống thường ngày, trong đời sống gia đình và xã hội của họ, cũng như để diễn tả niềm hy vọng vinh quang ‘ngay cả trong những cơ cấu của cuộc sống trần thế' (LG. 35) với một tâm hồn nhẫn nại và can đảm giữa những khó khăn của thời hiện đại” (Tông huấn Ki-tô hữu Giáo dân “Christi Fideles”, số 14).

 

3- Vương giả: Vương giả là ông vua, người lãnh đạo (Vương: vua, Giả: ông, người). Tham dự vào chức vụ Vương giả, ngụ ý tham dự vào công việc của Vua Giê-su; mà Vua Giê-su khác hẳn những ông vua phong kiến ở trần thế (chỉ biết ngồi thụ hưởng, được mọi người phục vụ hết mình), Vua Giê-su thì “Thầy đến để phục vụ chớ không phải để được phục vụ” (Mt 20, 28). Được tham dự vào chức vụ Vương giả có nghĩa là được làm chủ (tinh thần dân chủ): Làm chủ bản thân, làm chủ trần thế. “Vì thế, tín hữu phải nhận biết bản tính sâu xa của tạo vật, giá trị của chúng, và cùng đích của chúng là ca tụng Thiên Chúa; đồng thời phải giúp nhau sống đời thánh thiện, nhờ những việc trần thế, để thế gian thấm nhuần tinh thần Chúa Ki-tô và đạt đến cùng đích một cách hữu hiệu hơn trong công lý, bác ái và hòa bình. Giáo dân giữ lấy vai trò chính yếu trong khi chu toàn nhiệm vụ phổ quát đó.” (Hc “Lumen Gentium”, số 36).

 

B- GIÁO HỘI LÀ MỘT CỘNG-ĐỒNG-HIỆP-THÔNG-VÀ-TRUYỀN-GIÁO : Như đã trình bày, căn tính, chân tính của Giáo Hội là truyền giáo, là loan báo Tin Mừng Cứu Độ, là chia sẻ cho nhau Tình Yêu vô lượng của Thiên Chúa. Rõ ràng Giáo Hội là một tập thể, một cộng đồng sống tình huynh đệ chan hòa yêu thương trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, như lời chúc của Thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô: “Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Thiên Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần” (2Cr 13,13). Có thể khẳng định Giáo Hội là một-cộng-đồng-hiệp-thông-và-truyền-giáo, vì “Qua mọi thời đại, Chúa Thánh Thần "hợp nhất toàn thể Giáo Hội trong mối hiệp thông và thừa hành, ban phát các ơn phẩm trật và đặc sủng khác nhau", như là linh hồn làm sống động những Tổ Chức trong Giáo Hội và đổ dần vào lòng các tín hữu cũng một tinh thần truyền giáo đã thúc đẩy chính Chúa Ki-tô. Ðôi khi Chúa Thánh Thần lại chuẩn bị một cách hữu hình cho hành động truyền giáo, cũng như không ngừng dùng những phương thế khác nhau để theo sát và hướng dẫn vậy” (SL “Ad Gentes”, số 4).

 

Vâng, “Sự hiệp thông và việc truyền giáo gắn liền với nhau, xâm nhập và quấn quít nhau và đã trở nên như nguồn mạch, và là hoa trái của việc truyền giáo. Hiệp thông là truyền giáo, và truyền giáo có mục đích thể hiện sự hiệp thông. Chính một Chúa Thánh Thần kêu gọi và hiệp nhất Giáo Hội và sai Giáo Hội đi rao giảng Phúc âm "khắp trên mặt đất" (Acts. 1, 8)... Sứ mệnh của Giáo Hội nằm ngay trong bản tính của mình như Chúa Ki-tô đã muốn: đó là sứ mệnh phải trở nên "dấu chỉ và phương thế làm cho toàn thể nhân loại được hợp nhất". Sứ mệnh này có mục đích làm cho mọi người biết và sống sự hiệp thông "mới"; sự hiệp thông đi vào lịch sử thế giới nhờ con Thiên Chúa làm người” (Tông huấn “Christi Fideles Laici”, số 32). Chính vì thế, tất cả mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo Hội đều sống hiệp thông huynh đệ với nhau để cùng thực thi sứ vụ chung là "đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15).

 

C- TÍNH CHẤT CÁCH TÂN VÀ NHẤT QUÁN TRONG SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO:  Kể từ khi được Thiên Chúa dựng nên và hiện diện trên trái đất, nếu loài người cùng thực hành, thực thi một công việc nào đó cho đến lúc thế giới cánh chung, thì đó chính là tính cách nhất quán của công việc ấy. Vậy thì từ khi những Ki-tô hữu được ơn gọi trở nên Dân Thiên Chúa, chỉ được trao có một nhiệm vụ duy nhất, cao cả nhất là rao giảng Tin Mừng cứu độ, thì sứ vụ ấy đã mang tính nhất quán (trước sau là một, chỉ có một mà thôi). Sứ vụ được trao tuy chỉ là một, là bất di bất dịch, là bất biến, nhưng lại luôn luôn thích nghi với thời đại, với từng giai đoạn trong trường kỳ lịch sử nhân loại, luôn phù hợp với từng hoàn cảnh địa dư, thì đó chính là tính chất cách tân (luôn luôn đổi mới) của hoạt động truyền giáo của Giáo Hội.

 

Từ thời Cựu Ước, vấn đề truyền giáo đã được đặt ra. Đến thời Tân Ước, chính Đức Giê-su Kitô thực hiện việc loan báo Tin Mừng thông qua Hy tế Thập Giá và sự Phục Sinh vinh hiển của Người – một cuộc canh tân vĩ đại đã mở ra “trời mới đất mới” cho loài người. Khi hoàn tất sứ mạng, trong ngày lễ Ngũ Tuần, Đức Ki-tô lại phán cùng các môn đệ: "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em… Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ" (Ga 20, 19-23). Đó là Giáo Hội sơ khai do chính Đức Ki-tô thiết lập với viên đá tảng đầu tiên là Thánh Phê-rô. Trải qua 2000 năm lịch sử, với các Công Đồng Chung, Giáo Hội luôn luôn kiện toàn và đổi mới phương cách trong sứ vụ duy nhất là truyền giáo cho phù hợp với từng giai đoạn, từng bối cảnh lịch sử loài người. Đặc biệt và gần đây nhất là Thánh Công Đồng Chung Va-ti-ca-nô II (1962-1965) đã làm một cuộc canh tân vĩ đại chưa từng thấy trong lịch sử Giáo Hội. Cả một triều đại Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II (và vẫn được tiếp nối tới triều đại đương kim: Đức GH Phan-xi-cô), một khẩu hiệu luôn luôn được Đức Giáo Hoàng nhắc đi nhắc lại và tận tâm, tận lực thực hiện là khẩu hiệu “Canh tân và sám hối” (Đã đến giờ phải đổi mới việc rao giảng Phúc âm” – Tông huấn “Christi Fideles Laici”, số 34).

 

Rõ ràng việc rao giảng Tin Mừng Cứu Độ luôn luôn thích nghi với thời đại và là sợi chỉ vàng xuyên suốt quá trình lịch sử hình thành và phát triển của Giáo Hội. Sự thích nghi với từng thời điểm của lịch sử nhân loại là tính chất cách tân (đổi mới), và phải chăng sợi chỉ vàng xuyên suốt ấy là tính chất nhất quán (duy nhất) của hoạt động truyền giáo của Giáo Hội? Cũng có thể khẳng định rằng để có Giáo Hội (Giáo Hội hiện hữu) và để Giáo Hội mãi mãi tồn tại (Giáo Hội bất biến), điều tất yếu là phải Truyền Giáo.

 

III.- KẾT LUẬN :

 

Tóm lại, tự bản chất, Giáo Hội là một cộng đồng, một tập thể bao gồm tất cả Dân Thiên Chúa. Tất cả và mỗi Ki-tô hữu là thành phần của Giáo Hội, bởi vì họ đã là “cành nho của thân cây nho duy nhất là Đức Giê-su”. Mỗi cành nho hút nhựa từ thân cây nho để tồn tại và trổ sinh hoa trái, và việc trổ sinh hoa trái ấy chính là một sứ vụ đáp trả ân sủng nguồn nhựa đã hút được. Nói khác hơn, việc trổ sinh hoa trái chính là việc “đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15). Và đó chính là sứ vụ Truyền Giáo mà Hiền thê Giáo Hội được chính vị Hôn phu Giê-su Ki-tô trao phó, để tiếp nối hành trình cứu độ nhân loại. Vâng, và xin mượn lời dạy của Sắc lệnh Truyền Giáo (Ad Gentes), để một lần nữa minh họa hoạt động trong sứ vụ chung của tất cả chúng ta, những Ki-tô hữu trong Giáo Hội :

 

“Hoạt động truyền giáo không gì khác hơn, cũng không gì kém hơn là biểu lộ hoặc bày tỏ ý định của Thiên Chúa và hoàn tất ý định đó nơi trần thế và trong lịch sử thế trần... Bởi vậy, bất cứ điều gì tốt đẹp được nhận biết là đã được gieo vãi trong tâm trí con người, hay trong những lễ chế và văn minh riêng của các dân tộc, sẽ không bị hủy diệt, mà còn được thanh tẩy, thăng tiến và hoàn tất, để Chúa được tôn vinh, ma quỷ bị xấu hổ và con người được hạnh phúc. Vì thế, hoạt động truyền giáo hướng về sự viên mãn cánh chung: nhờ hoạt động truyền giáo này, Dân Chúa được phát triển tới mức độ và thời gian mà Chúa Cha đã ấn định do quyền riêng của Ngài như lời tiên tri nói với Dân này rằng: ‘Hãy mở rộng nơi con cắm trại, hãy căng rộng lều vải của con, đừng ngần ngại’ (Is 54, 2). Cũng nhờ hoạt động truyền giáo, Nhiệm Thể được triển nở đến thời hạn viên mãn của Chúa Ki-tô, và đền thờ thiêng liêng, nơi Thiên Chúa được thờ lạy trong tinh thần và chân lý, sẽ lớn lên và được xây dựng ‘trên nền móng là các Tông đồ và các Tiên tri mà chính Chúa Giêsu Kitô là viên đá góc’ (Ep 2, 20)” (SL “Ad Gentes”, số 9).

 

Quả thật, “Thiên Chúa yêu người vui vẻ cho đi” (2Cr 9, 7). Ngày Khánh Nhật Thế Giới Truyền Giáo cũng là một thời gian để khơi lại ước muốn và trách nhiệm luân l‎ý của việc tham gia cách vui vẻ vào sứ vụ truyền giáo – Ad Gentes… Chúng ta đừng để ai cướp mất niềm vui của việc loan báo Tin Mừng! Tôi mời anh chị em đắm mình trong niềm vui của Tin Mừng và nuôi dưỡng một tình yêu có sức soi sáng ơn gọi và sứ vụ của anh chị em. Tôi mong mỏi anh chị em nhớ lại, như trong một cuộc hành hương tâm linh, “tình yêu ban đầu” mà Đức Chúa Giê-su Ki-tô đã sưởi ấm tâm hồn tất cả mọi người, không phải để có một cảm giác nhớ nhung, nhưng để kiên trì trong niềm vui. Các môn đệ của Chúa kiên trì trong niềm vui khi họ ở với Người, khi họ làm theo Thánh Ý Người, và khi họ chia sẻ với những người khác đức tin, niềm hy vọng và đức ái của Tin Mừng.” (Sứ Điệp Ngày Khánh Nhật Thế Giới Truyền Giáo 2014, phần kết luận).

 

Xin cùng hiệp ý với lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô: “Chúng ta hãy cầu xin cùng Đức Mẹ Maria, mẫu gương truyền giáo khiêm tốn và vui vẻ, để cho Hội Thánh trở nên một nhà cho nhiều người, một người mẹ cho tất cả các dân tộc và việc ra đời của một thế giới mới có thể xảy ra.” Ước được như vậy. Amen.

 

JM. Lam Thy ĐVD.