Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Phụng Vụ Lời Chúa trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh

Tác giả: 
Cao Tấn Tĩnh
 
 
"Thày là sự sống lại"
 
Phụng Vụ Lời Chúa trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh
 
 
 

Nếu trong Mùa Chay, nhất là từ Tuần Thư 4 trở đi, bao gồm cả Tuần Thánh, chủ đề chính yếu của phụng vụ Lời Chúa là Mầu Nhiệm Vượt Qua, hướng về (Mùa Chay) và cử hành (Tam Nhật Thánh) biến cố khổ giá và phục sinh của Chúa Kitô, tột đỉnh mạc khải thần linh của Thiên Chúa, thì trong Mùa Phục Sinh 7 tuần lễ, chủ đề của phụng vụ Lời Chúa phản ảnh đúng như lời Chúa Kitô đã tuyên bố về bản thân Người "Thày là sự sống lại và là sự sống", một chủ đề có 2 phần: phần 1 "Thày là sự sống lại" cho Tuần Bát Nhật Phục Sinh, và phần 2 "Thày là sự sống" cho 6 tuần lễ còn lại của Mùa Phục Sinh (rồi chúng ta sẽ thấy).
 
 
Thật vậy, chủ đề của phụng vụ Lời Chúa cho Tuần Bát Nhật Phục Sinh, kể từ ngày đầu tiên là Chúa Nhật Phục Sinh (ở Thánh Lễ ban ngày, chứ không phải Thánh Lễ Đêm Vọng Phục Sinh) đến ngày thứ 8 là Chúa Nhật thứ 1 sau Phục Sinh là chính Lễ Lòng Thương Xót Chúa, toàn là những bài Phúc Âm (bao gồm toàn bộ 4 cuốn, nhưng chính yếu là Phúc Âm Thánh ký Gioan có 4 trong 8 bài mà 2 bài chính vào 2 Chúa Nhật đầu và cuối Tuần Bát Nhậtđược Giáo Hội cố ý chọn đọc về các lần Chúa Kitô sau khi sống lại từ trong cõi chết hiện ra khác nhau theo thứ tự thời gian, như sau:
 

Trong các bài Phúc Âm đều cho thấy việc Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra là để chẳng những chứng thực Người đã sống lại đúng như Thánh Kinh và lời Người đã báo trước, mà còn để trở thành sứ vụ loan báo của thành phần chứng nhân tiên khởi là các tông đồ nữa, đúng như lời Chúa Giêsu đã tiên báo về mối liên hệ mật thiết bất khả phân ly giữa Ngài và Giáo Hội Truyền Giáo: "Thần Chân Lý từ Cha mà đến và là Đấng chính Thày sẽ sai đến từ Cha, Ngài sẽ làm chứng về Thày. Các con cũng phải làm chứng về Thày, vì các con đã ở với Thày ngay từ ban đầu" (Gioan 15:26-27). 

 

 
Đó là lý do bài đọc 1, trong suốt Mùa Phục Sinh, không trích từ Cựu Ước, mà toàn là Sách Tông Vụ, thứ tự được Giáo Hội trích đọc từ đầu đến cuối (trừ Chúa Nhật Phục Sinh ở đoạn 10 là đoạn được coi là tổng hợp), và cuối lại là đầu (với biến cố Hiện Xuống vừa kết thúc Mùa Phục Sinh vừa mở màn Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh), một cuốn sách có thể nói là Phúc Âm về Thánh Linh liên quan đến Sứ Vụ Truyền Giáo của Giáo Hội. 
 
 
"Thày là sự sống lại" ở 4 Phúc Âm Tuần Bát Nhật PS
 
 
 
Chúa Nhật Phục Sinh (Gioan 20:1-9) 
 
 
Cho dù trong bài Phúc Âm của ngày thứ 1 trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh hôm nay vẫn chưa thấy Thánh ký Gioan thuật lại rõ ràng Chúa Kitô hiện ra lần đầu tiên về thể lý trước mắt các môn đệ của Người như các lần sau này, nhưng vị Thánh ký này đã cho thấy một Chúa Kitô quả thực đã sống lại rồi trước con mắt đức tin của ngài là một người môn đệ được Người yêu đã trung kiên với Người cho đến cùng ở dưới chân cây thập tự giá

 

"Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó... Ông thấy và ông tin... theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết".

 

Thứ Hai Bát Nhật (Mathêu 28:8-15)
 
 
Theo bộ Phúc Âm Nhất Lãm thì có một số phụ nữ theo Chúa Kitô khi Người còn sống, bao gồm cả Mai Đệ Liên, ra mồ từ sáng sớm, những sau khi thấy mồ trống, rồi lại vừa thấy và vừa nghe thiên thần báo tin rằng Chúa Kitô đã sống lại, cần phải báo tin cho các môn đệ của Người. Vậy chỉ có duy Thánh ký Mathêu mới thuật lại sự kiện Chúa Kitô phục sinh lần đầu tiên hiện ra với các bà như sau:
 
 
 

"Khi ấy, các bà vội ra khỏi mồ vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Chúa. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: 'Chào các bà'. Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: 'Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó họ sẽ gặp Ta'".
 
 
 
Thứ Ba Bát Nhật (Gioan 20:11-18)
 
 
Nhân vật chính trong các phụ nữ ra thăm mộ Chúa Kitô từ sáng sớm là Mai Đệ Liên, có thể chị là người đầu tiên rồi các bà khác ra sau nhập bọn, và chị là người cuối cùng ở lại bên mộ Chúa để tìm cho bằng được xác của Vị Sư Phụ vô cùng kính mến của chị, thế mà, khi chị được chính Người hiện ra và tai của chị nghe được rõ tiếng của Chúa mà chị lại cứ tưởng là người làm vườn nào đó, cho tới khi chị được chính Người gọi đích danh của chị:  
 
 
 

​"Chúa Giêsu gọi: 'Maria'. Quay mặt lại, bà thưa Người: 'Rabboni!' (nghĩa là 'Lạy Thầy!'). Chúa Giêsu bảo bà: 'Ðừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta. Nhưng hãy đi báo tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con'".

 

 
 
Thứ Tư Bát Nhật (Luca 24:13-35)
 
 
"Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra". Và tâm tình chia sẻ có vẻ tiêu cực và bi quan của hai vị đã được vị khách lạ trấn an bằng những lý lẽ Thánh Kinh, khiến các ông cảm thấy an lòng và ấm lòng, cho đến khi, qua cử chỉ quen thuộc của Người, họ mới nhận ra vị khách lạ vừa biến khuất khỏi mắt họ đó chính là Chúa Kitô.
 
 
 
 
"Ðang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Ðoạn Người biến mất".
 
 
Thứ Năm Bát Nhật (Luca 24:35-48)
 
 
"Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào. Mọi người còn đứng bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: 'Bình an cho các con! Này Thầy đây, đừng sợ'".
 
 
 
 
Thánh ký Luca, qua đoạn trên đây, đã thuật lại sự kiện lần đầu tiên Chúa Kitô hiện ra với chung các tông đ sau khi Người từ trong cõi chết sống lại. Tuy nhiên, Đấng Phục Sinh vẫn còn phải chứng thực Người quả thật là Thày của các vị và là Đấng đã thực sự bị đóng đanh nữa, bằng cả các dấu hiệu bề ngoài là chân tay của Người và ăn uống trước mặt các ông, lẫn soi sáng cho các vị thấy rằng những lời Thánh Kinh về Người đã được hoàn toàn ứng nghiệm, để rồi, nhờ các vị tin, các vị mới có thể và còn phải làm chứng về Người:
 
 
 
 
"Phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy".
 
 
 
 
Thứ Sáu Bát Nhật (Gioan 21:1-14)
 
 
"Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến". Thánh ký Gioan trong bài Phúc Âm hôm nay thuật lại lần hiện ra với chung các tông đồ, "đây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại". Lần thứ hai được Giáo Hội chọn đọc cho Chúa Nhật thứ 1 Phục Sinh, kết Tuần Bát Nhật Phục Sinh, Lễ Trọng Kính Lòng Thương Xót Chúa.
 
 
Trong lần hiện ra thứ 3 này, tuy chỉ có 7 vị, vẫn được kể là với chung các vị, một lần hiện ra có hai điều khác lạ: trước hết là không phải ở trong Nhà Tiệc Ly kín mít nữa, mà là ở ngoài trời, ở trên bờ hồ Tibêria, và vì thế, sau nữa, Người cũng không còn chúc "bình an cho các con" như lần đầu nữa, bởi các vị đã tin rằng Người đã sống lại nên mới dám lò mò đi ra ngoài sinh hoạt đánh cá trở lại. 
 
 
 
 
Thế nhưng hình như vào buổi chiều tối thôi, cũng có vẻ còn lén lút chứ chưa hoàn toàn công khai trước mặt dân chúng. Bởi thế, thâu đêm các vị cũng chẳng bắt được con nào, cho đến "lúc rạng đông", nghe lời của một vị đứng trong bờ bảo sao làm vậy thì nhóm hầu như toàn là những tay lành nghề đánh cá mới bắt được một mẻ cá lạ lùng, nhờ đó các vị (mà đầu tiên là "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu") đã nhận ra Đấng Phục Sinh: "Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi: 'Ông là ai?' Vì mọi người đã biết là Chúa".
 
 
 
 
Thứ Bảy Bát Nhật (Marco 16:9-15)
 
 
Hôm nay, ngày áp cuối cùng của Tuần Bát Nhật Phục Sinh, Giáo Hội sử dụng Phúc Âm của Thánh ký Marco chưa được đọc đến một tí nào trong suốt cả tuần, để gọi là tổng liệt kê các lần Chúa Kitô Phục Sinh đã thứ tự hiện ra khác nhau, (như đã được các Phúc Âm thuật lại trong tuần này), nhưng không chỉ riêng với các tông đồ, như 2 bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan, mà còn bao gồm các người khác nữa, kể cả thành phần môn đệ lẫn nữ giới:
 
 
"Khi Chúa Giêsu sống lại, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, thì trước hết Người hiện ra với Maria Mađalêna... (bài Phúc Âm Thánh Gioan Chúa Nhật Phục Sinh). Sau đó, Chúa lại hiện ra dưới hình thức khác với hai môn đệ đang trên đường về miền quê... (bài Phúc Âm Thánh Luca cho ngày Thứ Tư). Sau hết, Chúa hiện ra với mười một tông đồ lúc đang ngồi ăn (bài Phúc Âm Thánh ký Luca cho ngày Thứ Năm)".
 
 
Chúa Nhật Bát Nhật (Gioan 20:19-31)
 
 
"Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: 'Bình an cho các con'".
 
 
 
 
Theo Thánh ký Gioan thì lần Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra này là lần hiện ra thứ hai của Người với chung các tông đồ, và lần này cũng là lần duy nhất trong cả Tuần Bát Nhật Phục Sinh được Phúc Âm cho thấy phản ứng tích cực và chủ động của chung tông đồ đoàn qua vai trò đại diện của Tông Đồ Tôma. Để đáp lại lời trắc nghiệm về lòng tin tưởng của các tông đồ về căn tính "Thày là ai?", Tông Đồ Phêrô đã đại diện tuyên xưng "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian" (Mathêu 16:16) thế nào, thì giờ đây, Tông Đồ Tôma cũng đại diện tông đồ đoàn tuyên xưng như thế: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" 
 
 
 
 
Câu tuyên xưng của Tông Đồ Tôma sau khi Chúa Kitô Phục Sinh, về hình thức có vẻ khác lạ với câu tuyên xưng chính yếu của Tông Đồ Phêrô: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con", nhưng về nội dung cũng chất chứa những gì cốt lõi trong lời tuyên xưng của Tông Đồ Phêrô về căn tính của Người: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". "Chúa" và "Thiên Chúa" nơi lời tuyên xưng của Tông Đồ Tôma đây, trước hết, "Chúa" ám chỉ nguồn gốc thần linh của "Thày là Đức Kitô" Thiên Sai, và "Thiên Chúa" ám chỉ bản tính thần linh của "Con Thiên Chúa hằng sống". 
 
 
Câu tuyên xưng của Tông Đồ Tôma vào Chúa Kitô Phục Sinh còn có một ý nghĩa làm nên chính Mùa Phục Sinh nữa: "Thày là sự sống lại và là sự sống". Bởi vì, nếu Thày không phải là "Chúa" thì Thày đã không "sống lại", nhưng nay vì Thày đã thật sự "sống lại" nên Thày quả thực là "Thiên Chúa" hằng sống, là chính "sự sống" vậy. 
 

Câu Chúa Giêsu phán sau lời tuyên xưng chính xác của vị tông đồ không còn hoài nghi này là "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin": Trước hết, không phải là Người hoàn toàn phủ nhận đức tin không cần chứng từ, bằng không đức tin Kitô giáo sẽ dễ trở thành hoang đường, chỉ thuần linh, nhất là thiếu chứng cứ lịch sử, không hợp với tầm mức lập luận của trí khôn và cảm nhận của tâm linh, phản lại với đường lối nhập thể của Người.

 

Sau nữa, khi khẳng định "Phúc cho những ai đã không thấy mà tin", Chúa Kitô Phục Sinh muốn nhấn mạnh đến chính cốt lõi của đức tin, đến thực tại thần linh của đức tin, như chính lời tuyên xưng của Tông Đồ Tôma, vị tông đồ không tuyên xưng: "Vâng, giờ đây con đã tin rằng Thày đã sống lại từ trong cõi chết", mà là "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con", vì biến cố phục sinh, cho dù là yếu tố then chốt của Mầu Nhiệm Vượt Qua và làm nên Mầu Nhiệm Vượt Qua, một mầu nhiệm cho thấy tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa, vẫn là một phương tiện hay một đường lối hơn là cùng đích, là mục tiêu, vì biến cố phục sinh cần phải có và không thể nào không xẩy ra để Vị "Thiên Chúa là thần linh" (Gioan 4:24) và "vô hình" (Colose 1:15) chứng tỏ Ngài thực sự là "Chúa" và là "Thiên Chúa".

 

Sau hết, khi tuyên phán "Phúc cho những ai đã không thấy mà tin", Người muốn ám chỉ đến chung Giáo Hội, một Giáo Hội có nền tảng là các tông đồ (xem Epheso 2:20), tiêu biểu nhất có thể nói là Tông Đồ Gioan, "người môn đệ được Chúa Giêsu yêu" cũng là người môn đệ duy nhất đứng dưới chân thập giá của Người với Mẹ của Người và được Người trao phó cho Mẹ của Người và muốn phải noi gương bắt chướng Mẹ của Người (Gioan 19:25-27), một người môn đệ, như Mẹ Maria, đã tin Người sống lại rồi, cho dù chưa được Người thực sự hiện ra như với Mai Đệ Liên (xem Gioan 20:8, 13-17).

 

Tông Đồ Gioan và nữ môn đệ đặc biệt Mai Đệ Liên là 2 nhân vật trung kiên theo Chúa Kitô cho đến cùng, cho đến khi đứng dưới chân thập giá của Người đấy. Thế nhưng, cả hai đều thấy chứng cớ phục sinh trước khi Chúa Kitô Phục Sinh hiện ra: Nữ môn đệ Mai Đệ Liên thấy trước, thấy tảng đá đã được chuyên rời (xem Gioan 20:1), thậm chí còn nhìn thấy và nghe thấy hai thiên thần ở bên trọng ngôi mộ (xem Gioan 20:12-13), đến độ "nhìn thấy Chúa Giêsu đứng đó" (Gioan 20:14) mà vẫn chưa tin..., trong khi đó, Tông Đồ Gioan, chỉ cần chứng từ các tấm khăn liệm trong ngôi mộ trống là đủ: "Ông đã thấy và đã tin" (Gioan 20:8).

 

Như thế cả Tông Đồ Gioan cũng "thấy" rồi mới "tin" thì có hơn gì Tông Đồ Tôma hay Nữ Môn Đệ Mai Đệ Liên đâu? Đúng thế nhưng mà vấn đề ở đây là Tông Đồ Gioan đã "tin" trước khi được Chúa Kitô hiện ra, nghĩa là cho dù Người có hiện ra hay không thì Người quả thực đã sống lại, vì đối với Tông Đồ Gioan, như với Mẹ Maria đầy ơn phúc, Vị thậm chí không cần phải tận mắt thấy chứng cứ như Tông Đồ Gioan nữa, Chúa Kitô đã thực sự là "Chúa" và là "Thiên Chúa" rồi, nên Người không thể nào chết mà không sống lại, trái lại, chính vì Người là "Chúa" và là "Thiên Chúa" mà Người phải sống lại và chắc chắn phải sống lại để chứng tỏ lời Người đã tự xưng thực tại thần linh của Người và loan báo trước về thực tại thần linh của Người: "Thày là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25). 

 

Đức tin tông truyền của Giáo Hội là ở chỗ đó. Kitô hữu hậu sinh tuy không được tận mắt thấy Chúa hiện ra, hay được diễm phúc sống với Người, được diễm phúc mắt thấy, tai nghe, tay sờ vào Người như các tông đồ (xem 1 Gioan 1:1), nhưng có cùng một đức tin như chính các vị, không phải chỉ tin rằng quả thực có một nhân vật Lịch Sử Nazarét, đã chịu tử giá và đã phục sinh, vào thời điểm lịch sử của các vị, mà còn tin rằng "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), "là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25) để sấp mình xuống tôn thờ Người: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con". 

 
 
"Thày là sự sống lại" ở Sách Tông Vụ Tuần Bát Nhật PS
 
 
 
 
Nếu "Thày là sự sống lại", như đã được Người đích thân chứng thực nhất là với các tông đồ là những kẻ đã được Người tuyển chọn cách riêng để "ở với Người", nhờ đó tin vào Người với sứ vụ được Người "sai đi để rao giảng tin mừng" nữa (xem Marco 3:13-14), cho "toàn thế giới" (Marcô 16:16), nhưng bắt đầu cho chính dân Do Thái là thành phần dân tuyển chọn của Thiên Chúa vẫn hằng mong đợi Đấng Thiên Sai của họ.
 
 
Đó là lý do, thành phần tông đồ đoàn toàn là người Do Thái, bao gồm cả chính bản thân của Đấng Thiên Sai và Người Mẹ của Người: "Ơn cứu độ (salvation) xuất phát từ những người Do Thái" (Gioan 4:22) là thế. Ơn cứu độ ở đây bao giờ cũng có tính chất Vượt Qua bất khả phân ly, đó là vượt qua sự chết mà vào sự sống, như chính Chúa Kitô Thiên Sai đã khổ giá và phục sinh vậy. 
 
 
Tuy nhiên, khổ giá còn có tính chất lịch sử trước mắt mọi người, kể cả giáo quyền Do Thái lẫn chính quyền Roma, còn phục sinh hoàn toàn là một mầu nhiệm thần linh hơn là biến cố lịch sử dù xẩy ra trong lịch sử. Không một ai, kể cả đệ nhất tạo vật về ân sủng là Mẹ Maria, đã được tận mắt thấy Chúa Kitô sống lại từ trong cõi chết, nhưng sự thật Người sống lại từ trong cõi chết là những gì đã được Thánh Kinh cũng như chính Người báo trước. Những lần Người hiện ra với các tông đồ là để chứng thực Người đã sống lại thật, và vì thế, chứng cớ về sự thật Chúa Kitô Phục Sinh chính là các tông đồ và ở nơi các tông đồ. 
 
 
Sách Tông Vụ được tác giả Luca là một dân ngoại thuật lại về Lịch Sử của Dân Tân Ước là Giáo Hội Kitô Giáo ngay từ ban đầu, mà tiến trình được mở màn, ngay sau Biến Cố Hiện Xuống vào Ngày Lễ Ngũ Tuần của Dân Do Thái, đó là Lời Chứng Tiên Khởi của Tông Đồ Đoàn được Thánh Phêrô lãnh đạo, kèm theo Dấu Chứng Tiên Khởi sau đó, bao gồm 2 phép lạ đầu tiên chứng thực quyền năng phục sinh của Chúa Kitô qua các tông đồ: phép lạ thứ nhất là phép lạ người què bẩm sinh ở Cửa Đẹp bất ngờ được chữa lành, và phép lạ thứ hai là phép lạ về nội bộ hiệp nhất nên một của Giáo Hội, một Giáo Hội mới được gia tăng nhân số bởi thành phần tân tòng trở lại từ Lời Chứng Tiên Khởi, một hiệp nhất yêu thương nội bộ là chứng từ truyền giáo đích thực nhất và mãnh liệt nhất trong suốt giòng lịch sử của Giáo Hội cho đến tận thế. 
 
 
Cả hai chứng từ cần thiết bất khả thiếu này: Lời Chứng Tiên Khởi và Dấu Chứng Tiên Khởi ấy đều được Giáo Hội nhắc lại trong suốt Tuần Bát Nhật Phục Sinh sau đây.
 
 
Chúa Nhật Phục Sinh (10:34a, 37-43) 
 
 

"Trong những ngày ấy, Phêrô lên tiếng nói rằng: 'Người là Ðấng người ta đã giết treo Người trên thập giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng Thiên Chúa đã tuyển chọn trước, chính chúng tôi đã ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại. Và Người đã truyền cho chúng tôi rao giảng cho toàn dân và làm chứng rằng chính Người đã được Thiên Chúa tôn làm quan án xét xử kẻ sống và kẻ chết".

 

 

Thứ Hai Bát Nhật (2:14, 22-32)

 

"Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: ... 'Hỡi anh em, xin cho phép tôi được bạo dạn nói với anh em về tổ phụ Ðavít rằng: ngài đã băng hà, đã được an táng và lăng tẩm của ngài còn nằm giữa chúng ta cho đến ngày nay. Nhưng vì ngài là tiên tri, và biết Thiên Chúa đã thề hứa với ngài sẽ cho một người trong dòng dõi ngài ngồi trên ngai vàng của ngài, nên thấy trước, ngài đã nói về việc Chúa Kitô phục sinh, vì Người không phải bị bỏ rơi trong cõi chết, và xác Người không bị huỷ diệt. Ðức Giêsu đó, Thiên Chúa đã cho sống lại; chúng tôi hết thảy xin làm chứng về điều ấy'".
 

 
 
Thứ Ba Bát Nhật (2:36-41)
 
 
"Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô nói với những người Do-thái rằng: 'Xin toàn thể nhà Israel hãy nhận biết rằng: Thiên Chúa đã tôn Ðức Giêsu mà anh em đã đóng đinh, lên làm Chúa và làm Ðấng Kitô'. Nghe những lời nói trên, họ đau đớn trong lòng, nói cùng Phêrô và các Tông đồ khác rằng: 'Thưa các ông, chúng tôi phải làm gì?' Phêrô nói với họ: 'Anh em hãy ăn năn sám hối, và mỗi người trong anh em hãy chịu phép rửa nhân danh Ðức Giêsu Kitô để được tha tội; và anh em sẽ nhận lãnh Thánh Thần...'"
 
 
Thứ Tư Bát Nhật (3:1-10)
 
 
"Phêrô và Gioan nhìn anh và nói: 'Anh hãy nhìn chúng tôi'. Anh ngước mắt chăm chú nhìn hai ngài, mong sẽ được hai ngài cho cái gì. Nhưng Phêrô nói: 'Vàng bạc thì tôi không có, nhưng có cái này tôi cho anh, là: nhân danh Ðức Giêsu Kitô Nadarét, anh hãy đứng dậy mà đi!' Rồi Phêrô nắm tay mặt anh mà kéo dậy, tức thì mắt cá và bàn chân anh trở nên cứng cát; anh nhảy ngay lên mà đứng và đi được; anh cùng hai ngài tiến vào đền thờ, anh vừa đi vừa nhảy nhót và ngợi khen Thiên Chúa, và dân chúng đều thấy anh đi và ngợi khen Chúa".
 
 
 
 
Thứ Năm Bát Nhật (3:11-26)
 
 
"Thấy vậy Phêrô liền nói với dân chúng rằng: 'Hỡi các người Israel, tại sao anh em ngạc nhiên về việc đó và nhìn chúng tôi như là chúng tôi dùng quyền năng hay lòng đạo đức riêng mà làm cho người này đi được?... Anh em đã chối bỏ Ðấng Thánh, Ðấng Công Chính, và xin tha tên sát nhân cho anh em, còn Ðấng ban sự sống thì anh em lại giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, điều đó chúng tôi xin làm chứng. Và bởi đã tin vào danh Người, nên danh Người đã làm cho kẻ mà anh em thấy và biết đây, được vững mạnh, và lòng tin vào Người chữa anh này hoàn toàn lành mạnh trước mặt hết thảy anh em".
 
 
Thứ Sáu Bát Nhật (4:1-12)
 
 
"Lúc bấy giờ Phêrô được đầy Thánh Thần đã nói: 'Thưa chư vị thủ lãnh toàn dân và kỳ lão, xin hãy nghe, nhân vì hôm nay chúng tôi bị đem ra xét hỏi về việc thiện đã làm cho một người tàn tật, về cách thức mà con người đó đã được chữa khỏi, xin chư vị tất cả, và toàn dân Israel biết cho rằng: Chính nhờ Danh Ðức Giêsu Kitô Nadarét, Chúa chúng tôi, Người mà chư vị đã đóng đinh, và Thiên Chúa đã cho từ cõi chết sống lại, chính nhờ danh Người mà anh này được lành mạnh như chư vị thấy đây. Chính Người là viên đá đã bị chư vị là thợ xây loại ra, đã trở thành viên Ðá Góc tường; và ơn cứu độ không gặp được ở nơi một ai khác. Bởi chưng không một Danh nào khác ở dưới gầm trời đã được ban tặng cho loài người, để nhờ vào Danh đó mà chúng ta được cứu độ'".
 
 
 
Thứ Bảy Bát Nhật (4:13-21)
 
 
"Trong những ngày ấy, các thủ lãnh, kỳ lão và luật sĩ ... gọi hai ngài vào và cấm nhặt không được nhân danh Ðức Giêsu mà nói và giảng dạy nữa. Nhưng Phêrô và Gioan trả lời họ rằng: 'Trước mặt Chúa, các ngài hãy xét coi: nghe các ngài hơn nghe Chúa, có phải lẽ không? Vì chúng tôi không thể nào không nói lên những điều mắt thấy tai nghe'. Nhưng họ lại đe doạ hai ngài, rồi thả về, vì không tìm được cách nào trừng phạt hai ngài, họ lại còn sợ dân chúng, vì mọi người đều ca tụng Thiên Chúa về việc đã xảy ra".
 
 
 
 
Chúa Nhật Bát Nhật (4:32-35)
 
 
"Lúc bấy giờ tất cả đoàn tín hữu đông đảo đều đồng tâm nhất trí. Chẳng ai kể của gì mình có là của riêng, song để mọi sự làm của chung. Các tông đồ dùng quyền năng cao cả mà làm chứng việc Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, sống lại. Hết thảy đều được mến chuộng. Vì thế, trong các tín hữu, không có ai phải túng thiếu. Vì những người có ruộng nương nhà cửa đều bán đi và bán được bao nhiêu tiền thì đem đặt dưới chân các tông đồ. Và người ta phân phát cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu của họ".
 
 
 
 
 
Tóm lại
 
 
Qua phụng vụ Lời Chúa của Tuần Bát Nhật Phục Sinh, từ Chúa Nhật Phục Sinh đến Chúa Nhật thứ 1 sau Phục Sinh, Giáo Hội chẳng những muốn cho con cái của mình, qua các bài phúc âm trong 8 ngày này, thấy được sự thật Chúa Kitô đã sống lại từ trong cõi chết, và qua Sách Tông Vụ, thấy được sứ vụ chứng nhân của thành phần môn đệ Chúa Kitô cho phần rỗi của nhân loại. 
 
 
Vì: thành phần chứng nhân phục sinh bất khả thiếu này, theo bài đọc 2 của Chúa Nhật Phục Sinh, được trích từ Thư Thánh Phaolô gửi Giáo Đoàn Colose (3:1-4): "đã sống lại với Đức Kitô", và theo bài đọc 2 của Chúa Nhật thứ 1 sau Phục Sinh, được trích từ Thư Thứ 1 của Thánh Gioan (5:1-6), họ đã được "sinh bởi Thiên Chúa" bởi "tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô". 
 
 
Nếu theo bài đọc 2 của Chúa Nhật Phục Sinh, "khi Ðức Kitô là sự sống anh em xuất hiện, bấy giờ anh em sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang", thì quả thật, đúng như bài đọc 2 của Chúa Nhật 1 Phục Sinh đã khẳng định: "những gì sinh bởi Thiên Chúa đều chiến thắng thế gian, và đây là cuộc thắng trận thế gian, là chính đức tin của chúng ta. Ai là người chiến thắng thế gian, nếu không phải là người tin rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa?", đúng như những gì đã xẩy ra cho các tông đồ chứng nhân ở bài đọc 1 Thứ Bảy trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh vậy. 
 
 
"Trong những ngày ấy, các thủ lãnh, kỳ lão và luật sĩ nhận thấy Phêrô và Gioan kiên quyết, và biết hai ngài là những kẻ thất học và dốt nát, nên lấy làm lạ; và còn biết rằng hai ngài đã ở cùng Ðức Giêsu; họ thấy kẻ được chữa lành đứng ở đó với hai ngài, nên họ không thể nói gì nghịch lại được...".
 
 
Đúng thế, không một quyền lực thế gian nào, thậm chí cả quyền lực sự chết hỏa ngục (xem Mathêu 16:18) có thể khống chế được chứng từ về Chúa Kitô Phục Sinh nơi thành phần nhân chứng tông đồ của Người, ngay từ ban đầu lịch sử của Giáo Hội. 
 
 
Trái lại, lạ lùng thay, càng bị bách hại, bị tận diệt, liên lỉ, ở khắp mọi nơi và mọi thời, lịch sử lại càng chứng thực Kitô giáo càng phát triển, Giáo Hội, một quốc gia nhỏ bé nhất về cả địa dư và dân số trên thế giới, quả thực chẳng khác nào như một hạt cải nhỏ bé nhất đã thực sự càng trở thành một cây vĩ đại sừng sững vững bền cho tới nay, trong khi các thế lực đối nghịch đều đã bị tiêu tan. 
 
 
Điển hình nhất là một đế quốc Rôma đã từng hung tàn dã man tàn sát Công giáo suốt 3 trăm năm đầu giờ đây chỉ còn lại một số di tích lịch sử tàn rụi ở Rôma, trước một Giáo Hội Công Giáo Rôma vẫn trường tồn và trở thành tâm điểm của thế giới về tinh thần và luân lý.
 
 
 
Sự hiện diện, tồn tại, phát triển và ảnh hưởng của Giáo Hội Công Giáo Rôma nói riêng và Kitô giáo nói chung trên thế giới trong lịch sử loài người từ khi Thiên Chúa Giáng Thế Làm Người và Vượt Qua không phải là những gì chứng thực chẳng những Chúa Kitô "là sự sống lại" mà còn là chính "sự sống" hay sao, một "sự sống" là chủ đề cho 6 tuần còn lại của Mùa Phục Sinh chúng ta sẽ cùng nhau cảm nghiệm. 
 
 
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL