Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Thăng thiên – một biến cố lịch sử siêu việt

Tác giả: 
JM. Lam Thy ĐVD.

THĂNG THIÊN – MỘT BIẾN CỐ LỊCH SỬ SIÊU VIỆT (CN VII.PS-C – LỄ THĂNG THIÊN)

 

Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (số 660) viết: “Biến cố Thăng Thiên, vừa lịch sử vừa siêu việt, đánh dấu sự chuyển tiếp từ vinh quang này đến vinh quang kia.” Nói việc Chúa Giê-su Ki-tô thăng thiên mang tính lịch sử vì nó đã xảy ra trong một thời điểm nhất định (năm 33 – thế kỷ I công nguyên), ở một nơi chốn cụ thể (núi Ô-liu gần Bê-ta-ni-a, giáp phía đông thành Giê-ru-sa-lem của It-ra-en – xc Lc 24, 50-51; Cv 1, 12). Còn nói biến cố này mang tính siêu việt là muốn nói đến tính chất siêu linh vượt trên tất cả các biến cố trần thế.

 

Biến cố lịch sử siêu việt Thăng Thiên đã được Đức Giê-su tiên báo và dạy bảo rất kỹ từ trước: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó." – Ga 14, 1-3). Tuy nhiên, khi biến cố đó xảy ra thì các môn đệ vẫn bày tỏ thái độ hoang mang lo sợ, điển hình như cảnh: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa”, và thế là các Tông đồ cứ “đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi” (Cv 1. 9-10).

 

Các Tông đồ đã được “thực mục sở thị” mầu nhiệm thăng thiên của Thầy mình, cũng tức là đã được củng cố đức tin vững vàng về mầu nhiệm Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, xuống thế làm người, chịu khổ hình thập giá vì tội lỗi loài người, đã sống lại và thật sự lên trời vinh hiển. Những việc làm, những Lời dạy của Thầy đã là hiện thực 100%; vậy thì còn “đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy” làm chi nữa? Cái tâm trạng băn khoăn lo lắng để rồi thì cứ “đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy” nó cũng chẳng khác gì cảnh Thầy dạy: ”Thầy đi đâu thì anh em đã biết đường rồi”, thì ngay lập tức hỏi lại: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?" (Ga 14, 4-5). Tuy không dám nói ra, nhưng chắc chắn trong lòng các môn đệ vẫn băn khoăn thắc mắc: “Thầy lên trời, vậy trời ở đâu, và tại sao Thầy lại nói Thầy về với Chúa Cha ở trên trời mà vẫn “ở cùng anh em mọi ngày cho đến ngày tận thế” (Mt 28, 20 )? Và vì thế nên cứ “đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy”.

 

Tâm trạng các tông đồ cũng là tâm trạng chung của con người, bởi cho đến thế kỷ XXI văn minh tiến bộ vượt bậc này, khoa học vẫn chưa chứng mình được trời ở đâu.  Nếu đã tin chắc trái đất tròn, đặt giả thử biến cố thăng thiên xảy ra ở mặt địa cầu phía đối nghịch với Ít-ra-en (như ở Việt Nam, chẳng hạn), thì  Đức Giê-su sẽ bay lên trời theo hướng ngược lại với hướng mà các Tông đồ cứ “đăm đăm nhìn theo”. Vậy thì trời ở đâu, ở phía trên đầu các môn đệ tại Giê-ru-sa-lem hay phía trên đầu các dân tộc Á Đông? Điều đó cho thấy biến cố Chúa lên trời chỉ là một cách Thiên Chúa mạc khải cho con người dễ hiểu mà thôi. Còn thực chất trời không phải là một không gian cố định nào và kể từ khi Chúa phục sinh thì Người không còn bị giới hạn bởi thân xác phàm tục nữa, mà là cùng lúc Người vẫn kết hợp mật thiết với Ngôi Cha và Ngôi Ba, đồng thời Người còn ở khắp mọi nơi “cả trên trời, dưới đất và trong nơi âm phủ nữa”. Như vậy là đã rõ, trời không phải là ở chỗ này hay chỗ kia, ở trên cao hay dưới thấp, mà là ở khắp mọi nơi.

 

Quả thật “Trời” chỉ là một tình trạng chớ không phải là nơi chốn hay khoảng không gian cố định. Hiểu theo Ki-tô giáo thì “Trời” chỉ là tình trạng của con người được kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa, là nguồn sự sống vĩnh cửu, hạnh phúc vô biên, nguồn chân thiện mỹ, vinh quang tuyệt đối. Vì thế, việc Đức Giê-su lên trời có nghĩa là Người trở về với Chúa Cha, mang theo nhân tính mà Người đón nhận khi trở thành người trần trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể và nhập thế; để từ đó đưa nhân tính ấy kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa Ba Ngôi. Với biến cố thăng thiên, Đức Giê-su muốn đưa các môn đệ vào không gian mầu nhiệm để họ kết hợp mật thiết hơn với Thiên Chúa, được thông hiệp sự sống kỳ diệu, nguồn chân thiện mỹ vô tận với Người. Người đã đưa họ lên trời vì Người là Đầu và các môn đệ là chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Người. (xc GL/HTCG, số 659-667).

 

Cũng trong ý nghĩa siêu việt đó, Đức Giê-su còn giao cho các môn đệ một nhiệm vụ quan trọng là xây dựng Nước Trời ngay trong lòng xã hội trần thế này, để cho mọi người tin vào Đấng Cứu Độ cũng được chia sẻ sự sống kỳ diệu, nguồn chân thiện mỹ vô tận và hạnh phúc vô biên của Thiên Chúa. Các môn đệ phải trở thành chứng nhân của Đức Ki-tô Phục Sinh (“Chính anh em là những chứng nhân về những điều này” – Lc 24, 48), nhờ sự kết hợp mật thiết với Chúa Giê-su và những đặc sủng của Chúa Thánh Thần, Đấng được Chúa Cha hứa ban cho họ. Vì thế, càng kết hợp với Chúa Giê-su, người Ki-tô hữu càng cảm nghiệm được tình trạng thiên đàng và cũng là tình trạng Nước Trời (GL/HTCG, số 1023-1029). Khi Giáo hội hướng dẫn người tín hữu sống thánh thiện để được “nên thánh giữa đời” (lên Thiên đàng, lên trời ngay ở trần gian này) là có chủ ý giúp giáo dân “cảm nghiệm được tình trạng thiên đàng và cũng là tình trạng Nước Trời” vậy. Chỉ đến khi nào “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2, 20), thì mới hiểu được Lời dạy: "Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế." (Mt 28, 20).

 

Rõ ràng vấn đề quan trọng không phải là “cứ đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy”, để mà tiếc nuối, hoặc để mà thắc mắc xem trời ở đâu và Thầy lên trời sẽ cư ngụ chỗ nào; mà là hãy nhớ lại lời Thầy đã truyền: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.” (Mt 28, 19). Vì thế, nên “Các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.” (Mc 16, 20). Sở dĩ các Tông đồ tiên khởi làm được như vậy, chính là nhờ biến cố “ngày lễ Ngũ Tuần” tiếp liền với biến cố lịch sử siêu việt Thăng Thiên đã giúp cho các ngài có một lòng tin sắt đá vào Thầy của mình, bởi “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ." (Mc 16, 17-18).

 

Có thể kết luận: “Thiên Chúa đã muốn dùng mạc khải để bày tỏ và thông ban chính mình Ngài cùng những ý định muôn đời của Ngài liên quan đến phần rỗi nhân loại, “nghĩa là cho họ được tham dự vào các ân thiêng hoàn toàn vượt khỏi trí khôn loài người”. Chính nhờ Thiên Chúa mạc khải mà “tất cả những gì thuộc về Thiên Chúa tự nó vốn không vượt quá khả năng lý trí con người, trong hoàn cảnh hiện tại của nhân loại, đều có thể biết được cách dễ dàng, chắc chắn mà không lẫn lộn sai lầm”. (Hiến chế Tín Lý về  Mạc Khải “Dei Verbum”, số 6). Rõ ràng Thiên Chúa đã vì Tình Yêu đến với con người bằng con đường mạc khải (mạc khải liên tiếp mầu nhiệm Lòng Thương Xót Nhập Thể => mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh => mầu nhiệm Thăng Thiên và Hiện Xuống); vậy thì tại sao con người lại không đến với Thiên Chúa bằng con đường đức tin?

 

Vâng, chính đức tin là con đường giúp con người tìm gặp Thiên Chúa để “khám phá ra một số ‘con đường” giúp nhận biết Người. Những con đường này còn được gọi là “bằng chứng về sự hiện hữu của Thiên Chúa”, không theo nghịa bằng chứng khoa học tự nhiên, nhưng theo nghĩa những “luận chứng đồng quy và có sức thuyết phục”, giúp con người biết chắc có Thiên Chúa.” (Giáo lý HTCG, số 31). Từ đó “con người phó thác toàn thân cho Thiên Chúa một cách tự do "dâng lên Thiên Chúa mạc khải sự qui phục hoàn toàn của lý trí và ý chí", đồng thời sẵn lòng chấp nhận mạc khải Ngài ban cho. Ðể được niềm tin này, cần có ân sủng Thiên Chúa đi trước giúp đỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần: Ngài thúc đẩy và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, mở mắt lý trí và làm cho "mọi người cảm thấy dịu ngọt khi đón nhận và tin theo chân lý". Và để việc hiểu biết mạc khải được sâu rộng thêm mãi, cũng chính Chúa Thánh Thần không ngừng kiện toàn đức tin qua các ơn của Ngài.” (Hiến chế “Dei Verbum”, số 5)

 

Ôi! Lạy Chúa, xin cho con biết sống đức tin của mình một cách chân thực. Vì quả thật rất nhiều khi con tuyên xưng đức tin của mình thật hùng hồn trước mặt mọi người, nhưng đời sống con lại chứng tỏ con chẳng tin bao nhiêu, thậm chí có nhiều khi con còn hoài nghi cả chính mình về một niềm tin con đã chọn cho đời mình! Vậy mà con lại luôn miệng chia sẻ niềm tin ấy cho mọi người, khiến người nghe cảm thấy những lời con nói chỉ là những sáo ngữ trên môi miệng, những lời giả dối... Thật chẳng khác "Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm." (Mt 23, ).

 

Ôi! Lạy Chúa! Xin ban Thánh Linh giúp con thật sự sống những điều con tin, và rao giảng những điều con sống. “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho cộng đoàn chúng con biết hoan hỷ vui mừng mà dâng lời cảm tạ, vì hôm nay, Con Một Chúa đã lên trời vinh hiển. Là Thủ Lãnh, Người đã đi trước mở đường dẫn chúng con vào Nước Chúa khiến chúng con là những chi thể của Người nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Người hưởng phúc vinh quang. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Thăng Thiên).

 

JM. Lam Thy ĐVD.