Đặc quyền đặc lợi
ĐẶC QUYỀN ĐẶC LỢI (CN XIII/TN-C)
Tâm lý chung của con người khi được tín nhiệm trao phó một nhiệm vụ quan trọng nào đó, thường hay muốn chứng tỏ mình có đặc quyền, thậm chí còn ỷ vào đặc quyền để “được voi đòi tiên”. Với các môn đệ của Đức Giê-su thì vì khi được thâu nhận, Người có nói một câu thật hấp dẫn: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá.” (Mc 1, 17). Theo Thầy thì sẽ có khả năng “lưới được con người” (thu phục lòng người, thu phục nhân tâm), như vậy mình sẽ trở nên nhân vật vô cùng quan trọng, được hưởng những “đặc quyền đặc lợi” không phải ai cũng có thể được thụ hưởng. Và vì thế nên các môn đệ đều mau mắn đi theo Thầy.
Điển hình cho quan niệm muốn chứng tỏ mình có đặc quyền là 2 nhân vật nổi bật ở trong Nhóm Mười Hai, đó là 2 người con ông Dê-bê-đê: Gia-cô-bê và Gio-an. đã có lần xin được ngồi bên tả và bên hữu Đức Giê-su (Mc 10, 35-40), rồi sau Phục Sinh, khi thấy một làng miền Sa-ma-ri không đón tiếp Đức Giê-su thì “hai môn đệ Người là ông Gia-cô-bê và ông Gio-an nói rằng: "Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống rhiêu huỷ chúng nó không?" Nhưng Đức Giê-su quay lại quở mắng các ông. Rồi Thầy trò đi sang làng khác.” (Lc 9, 51-55). Sau khi xảy ra cảnh vì ham muốn “đặc quyền đặc lợi” nên bị quở mắng, các môn đệ còn được “thực mục sở thị” những nhân vật cụ thể biểu hiện thái độ khi biết rõ điều kiện để được đi theo Đức Giê-su. Bài Tin Mừng hôm nay (CN XIII/TN-C – Lc 9, 51-62) trình thuật sự kiện đó.
Đó là câu chuyện 3 người muốn đi theo Đức Giê-su. Ở mỗi trường hợp, Đức Ki-tô trả lời một khác. Người thứ nhất xin đi theo thì Người trả lời: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu." (Lc 9, 58). Đa số những bài chia sẻ đều phân tích ý của câu này Đức Giê-su muốn nói rằng Người nghèo lắm, nghèo đến độ không có một miếng đất thật nhỏ để tựa đầu (giống như Việt Nam hay nói nghèo đến độ “không có cả miếng đất cắm dùi”). Đúng là Con Người vâng lệnh Chúa Cha, xuống thế mặc lấy thân khó hèn, gánh lấy bệnh tật và tội lỗi của loài người, thì rất nghèo. Vậy ai muốn đi theo Người cũng phải chấp nhận cuộc sống khó nghèo (một trong 3 lời khuyên của Phúc Âm). Ngoài nghĩa đen, câu nói của Đức Ki-tô còn hàm chứa một nghĩa bóng: Đó là Con Người đem tình yêu, tình thương đến cứu độ loài người, nhưng không được đón tiếp, không được chấp nhận, không có nơi trú ngụ (trong lòng người thế), đến độ còn thua cả con chồn có hang, con chim có tổ. Như vậy là Người muốn hỏi ngược lại kẻ muốn đi theo Người: “Thầy là như vậy đó, liệu anh em có thể theo được không?”
Trường hợp thứ hai, chính Đức Ki-tô lên tiếng kêu gọi một người đi theo, thì người ấy lại nói: "Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã." Đức Giê-su bảo: "Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa." Lời dạy này mới thoạt nghe thì có vẻ tréo cẳng ngỗng, nghịch thường nghịch lý ("Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết" – người chết lại có thể chôn người chết được ư?), nhưng nếu để ý đến câu tiếp theo ("Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa") thì sẽ hiểu ra ngay. Lời Thiên Chúa là Lời Hằng Sống, Triều Đại Thiên Chúa là Triều Đại Hằng Sống, là Nước Trường Sinh. Vậy thì, hãy cứ để “kẻ chết” (những người đang sống trong cõi chết trần thế) chôn “kẻ chết” của họ. Nói cách khác, anh muốn đi theo Thầy thì hãy từ bỏ tất cả, từ bỏ cả chính bản thân anh (từ bỏ chính mình), rồi còn phải vác thập giá của mình (những hy sinh, nhọc nhằn, vất vả, kể cả cái chết) mà theo Thầy. Có như vậy mới xứng đáng lo việc Cõi Sống (loan báo Triều Đại Thiên Chúa).
Đến trường hợp thứ ba, thì người xin theo lại "Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã." (Lc 9, 61). Và Đức Ki-tô cũng trả lời khác hơn 2 lần trước: "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa." Trở lại với thời Cựu Ước (bài đọc 1 cùng ngày) thì thấy: “Ông Ê-li-sa muốn theo ngôn sứ Ê-li-a, xin phép về từ biệt gia đình thì được chấp thuận và ông Ê-li-sa đã về giết một cặp bò làm lễ tế và tiệc từ biệt gia đình” rồi mau mắn “đi theo ông Ê-li-a và phục vụ ông” (1V 19, 19-21). Ngôn sứ Ê-li-a thì chấp thuận cho Ê-li-sa về làm tiệc từ giã gia đình, còn Đức Giê-su thì không đồng ý. Như vậy thì chẳng lẽ sang đến thời Tân Ước mà còn khó hơn cả Cựu Ước hay sao? Chuyện cũng đơn giản, vì sang đến thời đại Tân Ước, con người văn minh hơn, tiến bộ hơn, và cũng “kém tin” hơn, kém thực thà hơn, thậm chí còn ranh mãnh hơn, xảo quyệt hơn; nên chi cũng còn “tiếc của trời mà ngoái lại đàng sau” nhiều hơn. Biết đâu khi được cho về nhà từ giã gia đình thì lại muốn ở lại luôn, chẳng muốn rời xa cái tổ ấm đầy quyến rũ ấy để rồi cứ phải “ngoái lại đàng sau”. Cầm cày mà cứ ngoái cổ lại đàng sau thì làm sao mà cày ruộng?
Không lâu sau 3 trường hợp vừa nêu, thì lại có câu chuyện anh chàng phú hộ (người thanh niên có nhiều của cải) đến xin đi theo Đức Ki-tô. Anh ta đã là người giàu có, giờ đây nếu được theo chân Đức Giê-su Thiên Chúa thì còn hãnh diện biết chừng nào. Phú quý + danh vọng là mãnh lực quyến rũ con người muôn đời muôn thủa. Và cũng vì thế, nên khi nghe Đức Ki-tô bảo “anh hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” (Mt 19, 21), anh ta bị … cụt hứng! Ôi chao! Làm sao mà bán hết của cải đi được! Buồn lắm! Buồn đến đứt ruột! Thôi thì đành bái bai cái viễn tượng “cuộc sống đời đời” chẳng biết có thực hay không, để trở về với cái hiện thực đầy hấp dẫn “của cải đầy nhà, thóc lúa đầy bồ…” còn sướng hơn! Và chàng phú hộ nhà ta… tiu nghỉu như mèo bị cắt tai, buồn rầu bỏ đi một nước (Mt 19, 16-21). Thêm một lần minh hoạ một cách sống động cho cái kiểu muốn đi theo Thầy mà cứ “ngoái lại đàng sau” tiếc rẻ cõi phù sinh trần thế. Vậy đó!
Xét theo tâm lý chung của loài người thì 4 trường hợp nêu trên chỉ là “chuyện thường ngày ở huyện”. Con người là thế, chỉ muốn những điều có lợi cho bản thân (ích kỷ) theo nhãn quan thiển cận của mình, thậm chí có khi vì lợi ích bản thân mà hại đến người khác (ích kỷ hại nhân). Đến ngay như các môn đệ thân tín của Đức Ki-tô cũng không ngoại lệ. Cứ tưởng theo Chúa thì sẽ được ăn trên ngồi trốc, quyền lực thượng đẳng, chớ không ai nghĩ rằng muốn theo Chúa thì phải vác thập giá mình mà theo. Trong dụ ngôn “Tiệc cưới” biết bao kẻ được nhà vua mời một cách nhưng không, còn tìm đủ lý do xin kiếu (Lc 14, 15-24), huống hồ!
Cả 4 trường hợp “theo Chúa” như nêu trên đã chứng minh con người là chủ thể xuất phát điểm của đức tin và đức ái, nhưng khi con người chưa hết lòng Tin Yêu thì tất nhiên sẽ xảy ra cảnh muốn theo Chúa nhưng vẫn tiếc của trời “ngoái lại đàng sau”, không muốn “từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Đối với con người trần tục thì vấn đề theo Chúa Ki-tô quả thực là thiên nan vạn nan, khó lòng mà thực hiện cho được. Khó, nhưng không phải là không làm được, nếu người Ki-tô hữu biết sống đúng, sống đủ, sống trọn 3 nhân đức TIN + CẬY + MẾN. Tiên vàn thì cần phải “yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” đã. Muốn yêu Chúa như vậy thì phải dốc một lòng tin tưởng Người thực sự là cứu cánh duy nhất cho cuộc đời mình. Đức tin là gốc nhưng đức tin chỉ trưởng thành nhờ đức ái. Ấy cũng bời vì “chỉ có Đức Tin hành động nhờ Đức Ái” (Gl 5, 6).
Người Ki-tô hữu đừng bao giờ quên “Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn.” (Gl 5, 17), nên phải dốc một lòng Cậy trông Đấng đã hứa: "anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em."(Cv 1, 8), đó chính là “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.” (Ga 14, 26). Và chỉ có như thế mới khiến con người mỏng giòn yếu đuối của mình khi được Chúa mời gọi cộng tác với Người, sẽ không còn cảnh “ngoái lại đằng sau” mà lưu luyến cái cõi trần đầy nhơ uế tội lỗi, nhưng lại rất nhiều hấp lực lôi cuốn con người.
Ước được như vậy. Amen.
JM. Lam Thy ĐVD.
- Loại bài viết:
- Thể loại khác: