Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Hiển thị chân dung Thiên Chúa

Tác giả: 
JM. Lam Thy ĐVD.

 

 

HIỂN THỊ CHÂN DUNG THIÊN CHÚA            

(LỄ CHÚA HIỂN DUNG)

 

Lịch Phụng vụ của Giáo Hội đã ấn định ngày 6/8 là Lễ kính “Chúa Hiển Dung”. Biến cố “Hiển Dung” (còn gọi là “Biến Hình”) đã xảy ra vào khoảng 8 ngày sau Lời dạy của Đức Giê-su về mầu nhiệm Tử Nạn: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy.” (Lc 9, 22). Có lẽ cũng vì thế, nên lịch Phụng vụ của Giáo Hội đã trích bài Tin Mừng trình thuật biến cố Hiển Dung vào Chúa nhật II Mùa Chay. Như vậy thì cũng có thể nói biến cố Hiển Dung đã hiển dương (bày tỏ sự rực rỡ, vinh quang) mầu nhiệm Phục Sinh. Ðiều này cho thấy mầu nhiệm Phục Sinh luôn đi liền với mầu nhiệm Tử Nạn. Đức Ki-tô muốn cho các môn đệ được thấy trước ánh sáng Phục Sinh để họ khỏi nao núng khi Người chính thức buớc vào cuộc khổ nạn thập giá. Tất cả sứ vụ cao trọng của Con Người (từ khổ nạn thập giá đến chiến thắng tử thần để cứu độ nhân loại) đều đã được tiên báo.

 

Bài đọc Thánh Thư hôm nay được tùy nghi sử dụng một trong 2 đoạn trích: Một bài trích từ Cựu Ước (Đn 7, 9-10.13-14), một bài trích từ Tân Ước (2Pr 1, 16-19). Suy niệm bài Tân Ước thấy rõ Thánh Phê-rô xác nhận biến cố hiển dung đã thực sự xảy ra, bởi chính ngài cùng với Gio-an và Gia-cô-bê được Đức Giê-su đem theo lên núi Ta-bo và các ngài đã được chứng kiến tận mắt khi Người biến hình. Không những thế, thánh Phê-rô còn dẫn chứng cả Cựu Ước đã tiên báo về biến cố hiển dung: “Như vậy chúng tôi lại càng thêm tin tưởng vào lời các ngôn sứ. Anh em chú tâm vào đó là phải, vì lời ấy như chiếc đèn tỏ rạng giữa chốn tối tăm, cho đến khi ngày bừng sáng và sao mai mọc lên soi chiếu tâm hồn anh em. Quả vậy, lời ngôn sứ không bao giờ lại do ý muốn người phàm, nhưng chính nhờ Thánh Thần thúc đẩy mà có những người đã nói theo lệnh của Thiên Chúa.” (2Pr 1, 19-21).

 

Lời ngôn sứ mà thánh Phê-rô nhắc đến chính là ngôn sứ Đa-ni-en trong đoạn Thánh Thư trích từ Cựu Ước (Đn 7, 9-10.13-14). Ngôn sứ Đa-ni-en đã dùng tiếng “Đấng Lão Thành” để chỉ về Thiên Chúa, và tiếng “Con Người” để chỉ Con Thiên Chúa trong lời tiên báo về cuộc quang lâm của Đức Giê-su: “Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện. Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong.”

 

Hiển dung là bày tỏ cái diện mạo thực (chân dung) ra một cách rõ ràng. Còn biến hình là thay đổi hình dạng. Khi ba môn đệ theo Đức Giê-su lên núi Ta-bo, thì các ngài vẫn thấy Thầy của mình với dung mạo bình thường như các ngài đã được chứng kiến, được “thực mục sở thị” trong suốt ba năm theo Thầy đi khắp đó đây. Nhưng đến khi Thầy cầu nguyện thì “dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà” (Lc 9, 29). Sự kiện Chúa Giê-su biến đổi hình dạng đã khiến các môn đệ – trong đó có thánh Phê-rô – hoảng sợ. Sự hoảng sợ lần này khác với lần được chứng kiến “Đức Giê-su đi trên mặt biển” (Mt 14,22-32).

 

Lần trước, thánh nhân cho là mình gặp ma, thì lần này thánh nhân đã tin là Thầy mình đích thị là Thiên Chúa, và chỉ có như thế Thầy mình mới hội kiến, đàm đạo  với ông Mô-sê và ông Ê-li-a được. Từ hình dạng con người trần thế biến sang chân dung Thiên Chúa, Đức Giê-su Ki-tô muốn cho mọi người – thông qua các môn đệ thân tín của Người – hiểu rõ được Người chính là Con Thiên Chúa (“Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người! " – Lc 9, 36), là Thiên Chúa thật. Từ đó, giúp củng cố đức tin cho các môn đệ, cho mọi người; đồng thời, cũng chính là giúp biền đổi con người các môn đệ và nói chung là biến đổi con người các Ki-tô hữu.

 

Một câu hỏi được đặt ra: như vậy con người cũng có thể thay đổi hình dạng được như Đức Ki-tô chăng? Nếu chỉ là thay hình đổi dạng thì con người ở thế kỷ XXI này có thể và dư sức làm được. Ôi chao! Nào là giải phẫu thẩm mỹ, cấy da, cắt mắt, kẻ môi, nhuộm tóc, rồi thì tô son trét phấn, tắm sữa đắp kem…, ấy là chưa kể thời trang nọ, mô đen kia, thậm chí còn thay đổi cả giới tính nữa… Nhiều, nhiều lắm những kiểu cách “Lúc đi trắng, lúc về đen” giống như anh chàng Dương Bố trong “Cổ Học Tinh Hoa”. Truyện kể rằng:

 

“Một hôm trời nắng, Dương Bố đi chơi. Khi ở nhà ra, thì mặc áo trắng, đi được nửa đường, gặp trời mưa, quần áo ướt hết, mới vào ẩn mưa ở nhà bà con. Người ấy thấy Dương Bố ướt cả, cho mượn cái áo thâm. Một lúc trời tạnh, Dương Bố mặc áo thâm về nhà. Con chó trông thấy, vừa cắn vừa xua đuổi. Dương Bố giận toan cầm gậy đánh. Anh là Dương Chu chạy ra bảo: "Đừng đánh nó làm gì! Nó đuổi như thế cũng phải. Giả sử con chó trắng nhà ta, lúc đi thì trắng, lúc về thì đen, phỏng em có không lấy làm lạ mà không ngờ được không?" (Liệt Tử truyện).

 

Ồ! Nhưng mà … Dương Bố trước sau vẫn là Dương Bố. Dù có thay đổi cả giới tính, thì trước sau con người vẫn là… loài người, không hơn không kém. Chỉ có Đức Giê-su Ki-tô mới có thể từ bản chất loài người biến hình và hiển dung bản thể Thiên Chúa. Chỉ có Người – chính Người – mới có thể “dung mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà” (Lc 9, 29) được mà thôi. Tuy rằng con người không thể nào biến đổi chân dung thành Thiên Chúa được, nhưng vẫn có thể biến đổi chân tướng nên giống với Thiên Chúa. Nói cách khác, con người vẫn rất có thể và rất nên biến đổi cõi lòng, biến đổi tâm hồn của mình, để trở nên như một với Đức Giê-su Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật.

 

Có một minh hoạ rất thật, rất cụ thể, rất sống động cho sự biến đổi này, đó chính là thánh Phao-lô với biến cố Đa-mát (Cv 22, 6). Trải qua biến cố Đa-mát, hình dạng thánh Phao-lô vẫn không có gì thay đổi, nhưng chân tướng của ngài đã biến đổi hoàn toàn. Thánh Phao-lô là một con người mắc bệnh mù nội tâm, rồi bị mù cả thể lý khi biến cố Damas xảy ra (“bỗng nhiên có một luồng ánh sáng chói lọi từ trời chiếu xuống bao phủ lấy tôi….Vì ánh sáng chói loà kia làm cho tôi không còn trông thấy nữa, nên tôi đã được các bạn đồng hành cầm tay dắt vào Đa-mát” – Cv 22, 6-11); nhưng cũng chính nhờ biến cố Đa-mát mà thánh nhân đã được chũa lành bệnh mù nội tâm cùng lúc với mù thể lý, khiến thánh nhân từ một con người chuyên lùng giết những kẻ theo Giê-su biến thành một người theo Giê-su đến cùng. Thánh nhân đã cảm nhận được bản thân trở nên giống, trở nên “đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô trong cái chết của Người” (Pl 3, 10), đến nỗi phải thốt lên: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Ðức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2, 20).

 

Như vậy, vấn đề đặt ra cho người tín hữu không phải là thay hình đổi dạng bên ngoài, mà chính là làm sao biến đổi được cõi lòng bên trong, canh tân được đời sống tâm linh. Nói cách khác là “đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng” (Ge 2, 13). Đừng xé áo để mặc áo mới cho hợp thời trang, cho đúng mốt thời đại, mà cần phải xé lòng ra để rũ bỏ hết những tì ố, những xấu xa, tội lỗi, đồng thời đón nhận “luồng ánh sáng chói lọi” là chính Đức Giê-su Ki-tô đến để thanh tẩy tâm hồn, chữa lành cho bệnh mù nội tâm mà con người thường hay mắc phải.

 

Dân Chúa thời Cựu Ước mới chỉ được biết Con Một Thiên Chúa sẽ giáng trần cứu độ nhân loại thông qua các lời tiên tri của các ngôn sứ, các lời rao truyền về sấm ngôn  của Đức Chúa, chưa được trực diện chứng kiến cuộc biến hình của Đức Giê-su, chưa được như ba môn đệ thân tín của Đức Ki-tô được trực tiếp nghe Lời của Đức Chúa Cha phán: "Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!" (Lc 9, 36). Vậy mà Cựu Ước đã có lời nhắn nhủ “Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của anh em.” (Ge 2, 13). Đến như Dân Chúa ngày nay thì không những được nghe lời tiên tri, tiên báo về Đấng Cứu độ Giê-su Ki-tô, mà còn được chính các môn đệ thân tín của Đức Ki-tô tường thuật lại biến cố hiển dung của Con Thiên Chúa và nghe Lời phán dạy của Chúa Cha. Rõ ràng là Dân Chúa ngày hôm nay được biết nhiều hơn Dân Chúa thời Cựu Ước; nhưng phỏng đã mấy ai dám mạnh dạn xé lòng hơn là xé áo?

 

Kể ra thì con số những người dám “xé lòng” đã là con số khá nhiều, đó là các vị Tông đồ tiên khởi, và biết bao nhiêu vị hiển thánh – nhất là các thánh Tử vì Đạo – hiện đang được diễm phúc vui hưởng thành quả của hành động “xé lòng” trên Thiên quốc. Tuy nhiên, con số người chỉ thích “xé áo” vẫn là những con số nhiều hơn, áp đảo cả con số những kẻ biết “xé lòng”. Người ta chỉ thích xé áo để khoác vào người bộ áo sặc sỡ thế trần. “Cái áo không làm nên thầy tu”, những thầy tu chính hiệu đâu có câu nệ vào cái áo. Chỉ những thầy tu giả hình, những Pha-ri-sêu thời đại mới thích khoe cái áo, vì cho rằng nó sẽ giúp mình trục lợi về vật chất (khất thực, quyên góp tiền của), hãnh tiến về tinh thần (tín đồ o bế, xã hội trọng vọng). Và cũng chỉ vì mê xé áo mà quên mất Lời phán dạy từ đám mây bao phủ quanh mình: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!" (ibid).

 

“Hãy vâng nghe Lời Người”, mà Lời Người đã dạy như thế nào? Người không hề dạy hãy xé áo, mặc áo mới cho đẹp, mà Người đã dạy: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24); ”Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen… Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6, 1-4); “Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6, 6); "Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay… Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6, 16-18).

 

Người dạy nhiều lắm, và tất cả những Lời Người đã dạy có thể tóm gọn trong “Điều răn trọng nhất”, đó là : "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình." (Lc 10, 27). Tất cả những Lời dạy của Người không hề chuộng cái áo, cái vỏ bên ngoài, mà là đi thẳng vào cái cốt lõi, cái tư chất bên trong. Nói cách khác, Người muốn tất cả phải được lột xác, cái thân xác yếu hèn hiện có phải được huỷ diệt, để biến đổi thành con người mới như hạt lúa gieo vào lòng đất cần phải chết đi để sinh được nhiều hạt khác (“nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” – Ga 12, 24). Và quả thật, nếu không được cùng chết với Đức Ki-tô, thì làm sao được cùng sống lại với Người trong đời sống mới vinh quang? (“Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Ki-tô Giê-su, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới.” – Rm 6, 3-4).

 

Tóm lại, nhờ nghe lời Ðức Giê-su và sống như Người mà thân xác, khuôn mặt, trái tim người tín hữu được biến đổi để trở nên “đồng hình đồng dạng với Người”.  Vì thế, người Ki-tô hữu cần ý thức chân lý “được làm người là để được biến hình”. Cuộc biến hình cần phải diễn ra liên tục, mãi cho đến ngày nhắm mắt. Nhận chân được vấn đề, người Ki-tô hữu hãy mạnh dạn bày tỏ quyết tâm như một lời đoan hứa: Tôi nhất định không khua chiêng gõ mõ khi cầu nguyện, không méo miệng ngoẹo đầu rầu rĩ khi ăn chay, không biểu ngữ khoa trương khi làm từ thiện, không sáo rỗng màu mè khi an ủi anh em, không hứa lèo hứa cuội khi hoà giải, không mặc áo thày tu khi mình không phải là tu sĩ, không đánh trống bỏ dùi, tiền hậu bất nhất khi đòi đi theo Thầy Chí Thánh. Tất cả những thói hư tật xấu, tôi quyết tâm từ bỏ, như một lần nữa tôi tuyên xưng đức tin.

 

Ôi! Lạy Chúa! Con xin vâng nghe Lời Ngài, như lời Mẹ con hằng nhắc nhở: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo" (Ga 2, 6). Cũng chính vì “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119). Ôi! “Lạy Chúa! Xin cho con bước đi với Ngài, xin cho cùng vác với Ngài thập giá trên đường đời con đi. Lạy Chúa! Xin cho con đóng đinh với Ngài, xin cho con cùng chết với Ngài, để được sống với Ngài vinh quang” (Văn Chi – “Con đường Chúa đã đi” – TCCĐ).

 

JM. Lam Thy ĐVD.