Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Tự cao tự đại

Tác giả: 
JM. Lam Thy ĐVD.

 

 

TỰ CAO TỰ ĐẠI

(CN XXX/TN-C – CN TRUYỀN GIÁO)

 

 

 

Theo từ nguyên, “Tự cao tự đại” có nghĩa: Tự cho là mình giỏi, xem người khác là kém cỏi. Nói cách khác, đó chính là tình kiêu căng, ngạo mạn (kiêu ngạo). Với Ki-tô giáo thì kiêu ngạo là tội đứng hàng đầu trong “Bảy mối tội đầu”. Ngay từ Cựu Ước, ngôn sứ Gióp đã lý giải cụ thể: “Đức Chúa triệt hạ kẻ ăn nói kiêu căng và cứu vớt ai khiêm nhường cúi mặt.” (G 22, 29); Sang đến Tân Ước, Đức Maria – Mẹ Thiên Chúa – Mẹ Giáo hội khi cất lời “Ngọi khen” Thiên Chúa, cũng nêu bật sức mạnh của Đấng Chí Tôn đối với hạng người kiêu căng, quyền thế: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.” (Lc 1, 51-52). Thánh Phê-rô đã khẳng định chắc như đinh đóng cột: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường" (1Pr 5, 5).

 

Cũng chỉ vì “một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác” (Lc 18, 9), nên Đức Ki-tô mới kể dụ ngôn “Người Pha-ri-sêu và người thu thuế” (xc bài Tin Mừng CN XXX/TN-C – Lc 18, 9-14). Hai người cùng lên Đền Thờ cầu nguyện. Lên Đền Thờ khẩn cầu, tạ ơn, xin ơn là một việc tốt, nhưng ở đây hai người có hai thái độ trái ngược nhau. Người Pha-ri-sêu không thành thật cầu nguyện mà là tự khoe khoang, kể công, kể phúc. Ông cầu nguyện nhưng thực ra ông đang liệt kê một bảng thành tích: Ông đã giữ luật, đã không dám làm những điều lề luật cấm. Những điều được phép làm, ông còn làm nhiều hơn. Còn người thu thuế, tuy rằng ông tội lỗi thật vì đã từng phạm nhiều tội ác, nhưng ông đã hối hận và thành thật nhìn nhận tội lỗi của mình. Ông không dám nói nhiều, mà chỉ một câu ngắn gọn bộc lộ hết tấm lòng chân thành của mình: "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.

 

Cũng đã có nhiều bài chia sẻ cho rằng người Pha-ri-sêu đã sống và làm những việc tốt lành và ông đến Đền Thờ là để cảm ơn Thiên Chúa chớ không phải để khoe khoang thành tích (lý do là ông đã chỉ “nói thầm” với Thiên Chúa, chớ không nói to cho mọi người cùng nghe). Vấn đề đặt ra ở đây không phải là nói nhỏ hay nói to, mà là nói những gì với mục đích ra sao. Hơn ai hết, người Pha-ri-sêu đã biết Thiên Chúa thấu hiểu tất cả những gì thầm kín nhất của con người, không cần nói ra thì Người đã hiểu tận căn nội dung và mục đích người đến cầu nguyện. Những việc làm tốt đẹp ấy của người Pha-ri-sêu nếu thật sự phát xuất từ tình yêu, thì ông ta đã chẳng cần phải mở đầu bằng câu: "Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia." (Lc 18, 11). Và sau đó là một loạt những thành tích để chứng mình ông ta là người công chính chớ không “tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia". Đúng là thái độ của một kẻ kiêu ngạo, tự tôn, háo thắng, coi khinh người khác.

 

Người Pha-ri-sêu tưởng rằng ông ta có thể cậy vào việc giữ lề luật và những việc đạo đức của mình để tự hào là công chính trước mặt Thiên Chúa. Thực ra, sự công chính không đến từ việc làm hay việc tuân giữ lề luật, mà đến từ việc tin vào ân sủng của Thiên Chúa và sống phù hợp với niềm tin ấy. Do đó, càng cậy vào việc giữ luật và những việc mình làm để tự hào về sự công chính của mình, thì càng trở nên bất chính trước mặt Thiên Chúa. Thánh Phao-lô đã khẳng định: “Trước nhan Chúa, không người phàm nào được nhìn nhận là công chính vì đã làm những gì Luật dạy“ (Rm 3, 20). Những “dân nội” It-ra-en chỉ chuyên đi “tìm một luật làm cho họ nên công chính thì lại không đạt tới Luật đó. Tại sao thế? Tại vì họ không tìm cách nên công chính nhờ đức tin, nhưng nhờ việc làm.” (Rm 9, 31-32). Trong khi đó thì đã có biết bao nhiêu tấm gương “các dân ngoại không tìm cách để được nên công chính, thì được nên công chính, mà được nên công chính là nhờ đức tin.” (Rm 9, 30). Người thu thuế trong bài Tin Mừng hôm nay là một ví dụ điển hình.

 

Nói đến đức tin thì không thể quên được đức mến. Thật vậy, “chỉ có đức tin hành động nhờ đức ái” (Gl 5, 6). Nếu “mến Chúa” mà không “yêu người” thì chưa thể gọi được là đã đặt hết lòng tin vào Thiên Chúa Tình Yêu. Thánh Phao-lô trong Thư gửi tín hữu Cô-rin-tô đã nói: "Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi." (1Cr 13, 3).  Thật vậy, với những việc làm tốt đẹp, nhưng được làm với sự vô cảm, làm theo thói quen, theo truyền thống, hoặc làm để khoe khoang “ra vẻ ta đây”, mà không làm vì lòng “mến Chúa, yêu người”, thì cũng kể như không. Lời khuyên phù hợp nhất trong trường hợp này là đừng bao giờ tự hào về sự thánh thiện hay những việc làm tốt đẹp của mình, vì “Người nào không dựa vào việc làm nhưng tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính, thì lòng tin sẽ làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính.” (Rm 4, 5).

 

Lời khuyên chí tình vẫn mãi mãi là “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người." (Mc 9, 35). Hãy thẳng thắn nhìn lại chính con người của mình, không kiêu căng tự phụ, nhưng cũng không tự ti thái quá về tội lỗi của mình. Với con người trần thế đã “bị tội lỗi thồng trị” kể từ khi Nguyên tổ sa ngã, thì không ai tránh khỏi tội lỗi, và trước mặt Thiên Chúa, “không ai là người công chính, dẫu một người cũng không” (Rm 3, 10). Tuy nhiên, không vì thế mà Thiên Chúa ghét bỏ, trái lại Người càng thương nhiều hơn và tìm mọi cách cứu vớt con người khỏi vòng tội lỗi. Điều hiển nhiên không cần bàn cãi vì thực tế đã chứng minh: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội. Như vậy, nếu tội lỗi đã thống trị bằng cách làm cho người ta phải chết, thì ân sủng cũng thống trị bằng cách làm cho người ta nên công chính để được sống đời đời, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.” (Rm 5, 20). Duy chỉ có điều con người có biết nhìn lại mình một cách chân thực để thấy được tội lỗi đã mắc phạm, đồng thời có thực lòng ăn năn hối cải về những sai lầm thiếu sót của mình hay không, mà thôi.

 

Có lẽ cũng vì thế nên Phụng vụ Giáo hội để bài Tin Mừng này vào Chúa nhật Truyền Giáo. Truyền giáo ư? Chắc cũng không cần phải định nghĩa lại việc truyền giáo, vì nó là sứ mạng duy nhất, nhất quán của Giáo hội, của mỗi Ki-tô hữu ("Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế." – Mt 28, 19-20). Sứ vụ chỉ có một, nhưng thể hiện ra bằng việc làm, bằng hành động thì muôn màu muôn vẻ, không nhất thiết phải cứ thế này hay thế khác. Hoạt động truyền giáo không chỉ giới hạn trong việc "giảng đạo" như trước đây ở Việt Nam vẫn quan niệm, và do đó mà cho rằng chỉ có các linh mục, tu sĩ, các vị thừa sai... mới được giảng đạo, còn giáo dân thì chỉ việc nghe và chấp hành. Công việc truyền giáo cũng ví như các cành nho (Ki-tô hữu) hút nhựa từ thân cây nho (Đức Giê-su Ki-tô) và có bổn phận phải trổ sinh hoa trái. Chính vị sứ giả truyền giáo vĩ đại Giê-su Ki-tô cũng nhiều lần răn dạy môn đệ: “làm muối,” “làm men,” “làm ánh sáng”. Muối, men, ánh sáng thì không ồn ào rầm rộ, không phô trương khua múa, khoe khoang thành tích; mà là âm thầm hiện diện, và chỉ cần hiện diện đúng như bản chất của mình, tự khắc môi trường xung quanh sẽ thấm mặn, sẽ dậy men, và sẽ đầy ánh sáng. 

 

Như vậy truyền giáo có thể là dùng lời nói, mà cũng có thể dùng việc làm, nhưng tốt hơn cả là kết hợp chặt chẽ giữa lời nói với việc làm, hoặc nói cách khác là truyền giáo bằng chính cuộc sống chứng nhân của một Ki-tô hữu đích thực. Như thế thì đừng lo mình không có khả năng nói, giảng, thì không truyền giáo được. Bởi vì và trên tất cả, truyền giáo tuỳ theo phẩm trật trong Giáo hội, đồng thời cũng tuỳ thuộc vào đặc sủng do Thần Khí Chúa ban cho mỗi người ("Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung." – 1Cr 12, 4-7 ). Do đó, bất kỳ ai cũng có thể truyền giáo và truyền giáo bằng nhiều cách, nhiều phương thế khác nhau.

 

Từ khái niệm ấy, trở lại với bài Tin Mừng, sẽ thấy cả anh chàng Pha-ri-sêu và người thu thuế đều có thể truyền giáo được. Sẽ không có gì là mâu thuẫn hay nghịch lý, nếu anh chàng Pha-ri-sêu đã thực sự làm những việc đúng như anh nói (ăn chay tuần 2 lần, dâng Chúa 1/10 của cải thu nhập), anh làm với tất cả tâm tình mến Chúa yêu người, và không cần tới báo cáo hay khoe khoang thành tích (và đặc biệt hơn cả là tuyệt đối không "làm láo, báo cáo hay"!). Còn người thu thuế? Tuy rằng anh không giảng đạo, không làm chứng gì cả, nhưng anh đã biết nhìn lại con người tội lỗi của mình mà cầu xin lòng thương xót của Chúa. Như vậy là anh đã sống đúng với lời giáo huấn của vị sứ giả truyền giáo vĩ đại Giê-su Ki-tô, và như thế là anh đã truyền giáo rồi vậy ("Hoạt động truyền giáo không gì khác hơn, cũng không gì kém hơn là biểu lộ hoặc bày tỏ ý định của Thiên Chúa và hoàn tất ý định đó nơi trần thế và trong lịch sử thế trần, chính trong lịch sử này mà Thiên Chúa hoàn thành lịch sử cứu rỗi một cách rõ rệt nhờ việc truyền giáo." – SL Truyền Giáo “Ad Gentes”, số 9).

 

Khi nói về Truyền giáo, Thánh GH Gio-an Phao-lô II đã nhấn mạnh: “Chúng ta không thể rao truyền Phúc Âm cho người khác, nếu trước tiên ta không rao truyền Phúc Âm cho chính mình, nếu chính chúng ta không phải là đối tượng của công cuộc rao truyền ấy.” (Thông điệp Sứ mệnh Đấng Cứu Chuộc “Redemptoris Missio”, số 87). Nói cách khác, rao truyền Phúc Âm chính là công cuộc Phúc-Âm-hóa, mà Phúc-Âm-hóa là phương cách biến đổi con người theo Phúc Âm, làm sao để có thể “trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô” (Pl 3, 10). Vâng, “Mục tiêu của Phúc-Âm-hoá là dẫn mọi người vào cuộc gặp gỡ cá vị với Đức Giê-su Ki-tô, trong Thánh Thần, nhờ đó gặp gỡ Thiên Chúa Cha của Người, cũng là Cha của chúng ta, và để đời sống mình được biến đổi theo tinh thần Phúc Âm.” (Thư Chung 2013, số 3). Một cách cụ thể, chính cuộc đời người Ki-tô hữu phải được biến đổi theo Phúc Âm, phải được củng cố và làm mới lại đức tin của bản thân, nhiên hậu giúp những anh chị em đã xa rời đức tin tái khám phá vẻ đẹp và ánh sáng đức tin.

 

Tóm lại, nếu anh có làm được một vài công việc mưu ích cho tha nhân, cho đời, thì cũng đừng vội lên mặt tự hào phô trương; và nếu anh có được Thiên Chúa ban cho một cuộc sống tương đối cả về thể chất lẫn tinh thần ở trần thế này, thì cũng đừng vội tự hào cho rằng mình là người công chính, mà hãy thành khẩn nhìn nhận khiếm khuyết của mình trước Thiên Chúa, trước anh em, như người thu thuế đã làm. Tắt một lời, với khả năng và trong hoàn cảnh cụ thể của anh, anh hãy sống và làm việc theo giáo huấn của Đức Ki-tô (mến Chúa yêu người), biến đổi con người của mình theo Phúc Âm để trở thành “muối, men và ánh sáng” cho đời.

 

Ôi! “Lạy Chúa, Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý, xin hãy nhìn đến cánh đồng đầy lúa chín và đoái thương sai thợ gặt đến rao giảng Phúc Âm cho muôn loài, để dân Chúa được lời hằng sống qui tụ và được thần lực các bí tích thúc đẩy, biết tiến bước trên đường cứu độ và bác ái. Chúng con cầu xin, nhờ Ðức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Lễ Khánh nhật Truyền giáo).

 

JM. Lam Thy ĐVD.