Cuộc gặp gỡ đổi đời
CUỘC GẶP GỠ ĐỔI ĐỜI (CN III/MC-A)
Suy niệm bài đọc 1 hôm nay (CN III/MC-A – Xh 17, 3-7), mớI thấy nước cần cho sự sống con người như thế nào. Dân Do-thái được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập, đã nghe lời ngôn sứ Mô-sê mà “đi hết chặng này tới chặng khác” băng qua sa mạc. Khi “đóng trại ở Rơ-phi-đim, nhưng tại đấy không có nước cho dân uống. Dân gây sự với ông Mô-sê.” (Xh 17, 1-2). Có đi cả ngày trời trong sa mạc khô cháy, trên đầu là nắng lửa, dưới chân là cát nung như đoàn dân Do-thái ngày xưa trong hoang địa, mới cảm nhận được cái khát hành hạ người ta như thế nào và nhu cầu được uống cho đã cơn khát mới bức xúc làm sao. Thế nên khi bị cơn khát giày vò, họ đổ lỗi cho Mô-sê đã đưa họ vào nơi hoang địa khô cháy và đòi đem vị lãnh tụ nầy ra mà ném đá.
Sa-ma-ri là vùng đất nằm giữa Giu-đê (phía nam) và Ga-li-lê (phía bắc). Con đường ngắn nhất để đi từ Giu-đê lên Ga-li-lê là phải đi ngang qua Sa-ma-ri. Tuy nhiên, người Do-thái luôn kỳ thị và ghét bỏ người Sa-ma-ri vì họ không phải là dân Do-thái thuần chủng. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng người Sa-ma-ri được hình thành bởi sự pha trộn giữa người Do-thái và dân ngoại nên họ có văn hóa khác biệt. Về tín ngưỡng thì họ không chỉ tôn thờ Đức Chúa Trời, mà còn thờ cúng nhiều ngẫu tượng. Chính vì vậy, khi người Do-thái muốn đi từ Giu-đê về Ga-li-lê hay từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem, họ thường không đi ngang qua vùng Sa-ma-ri, mà đi đường vòng dọc theo thung lũng sông Gio-đan, rồi từ Giê-ri-khô đi lên Giê-ru-sa-lem. Đi vòng như vậy phải đối diện với cái nóng của sa mạc và phải mất thêm khoảng 40 cây số đường dài, nhưng họ cho là đáng làm vì không muốn va chạm với người Sa-ma-ri để bị ô nhiễm xấu xa. Người Giu-đa ghét dân Sa-ma-ri đến nỗi khi một người nào đó bị kêu là người Sa-ma-ri thì đó là một sự sỉ nhục.
Đức Giê-su xuất thân từ Do-thái, nhưng không theo quan niệm hẹp hòi của Do-thái, Người luôn đến với tất cả mọi người, không phân biệt dân ngoại (pha tạp) hay dân nội (thuần chủng). Nhất là đối với những người hèn mọn, đau ốm, tật nguyền, thì Người luôn chạnh lòng thương và tìm đến để chữa lành cho họ. Chính cách hành xử đó đã khiến bọn kinh sư luật sĩ Pha-ri-sêu luôn trách Người chuyên “ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi”. Đức Giê-su đã thẳng thắn vạch cho họ thấy sứ mệnh mà Người được Chúa Cha sai đến thế gian không gì khác hơn là: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn." (Lc 5, 30-32). Đó là lý do giải thích tại sao Đức Giê-su lại chọn con đường tắt đi ngang qua Sa-ma-ri để lên Giê-ru-sa-lem. Và vì thế mới có “Cuộc gặp gỡ đổi đời” với người phụ nữ Sa-ma-ri.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN.III/MC-A – Ga 4, 5-42) trình thuật việc Đức Giê-su tới miền Sa-ma-ri, và Người đã xin nước uống nơi một người phụ nữ đến lấy nước tại giếng Gia-cóp. Khát nước mà xin nước uống là chuyện bình thường đối với phàm nhân. Đức Giê-su là Thiên Chúa mặc xác phàm, nên chuyện đói khát về thể lý cũng bình thường như bao người khác. Nhưng câu chuyện thánh sử Gio-an trình thuật lại gây một ấn tượng độc đáo, đó là sự hoán vị của 2 nhân tố "xin" và "cho": Người xin nước uống trở thành người cho nước và người cho nước uống lại trở thành người xin nước. Một câu hỏi được đặt ra: Như vậy thì "người xin nước" và "người cho nước", ai mới là người thực sư khát nước?
Thực ra, việc Đức Giê-su xin nước uống chỉ là một cái cớ để Người cho những người Do-thái biết được Người không phân biệt dân ngoại hay dân nội như quan niệm hẹp hòi của họ, bởi họ thường cho mình mới thật là dân xịn – dân Thiên Chúa tuyển chọn chính hiệu – còn ngoài ra, tất cả đều là dân ngoại, là "quân tội lỗi", là đồ bỏ. Đám người Do-thái vẫn tự nhận mình là con cái tổ phụ Ap-ra-ham và liệt Đức Giê-su vào hạng người bị qủy ám, là “dân ngoại” (“Người Do-thái đáp: "Chúng tôi bảo ông là người Sa-ma-ri và là người bị quỷ ám thì chẳng đúng lắm sao?” – Ga 8, 48), rồi còn “lượm đá để ném Người” (Ga 8, 59). Ỷ mình là dân nội, họ không tin vào những điều giảng dạy của Đức Ki-tô, nhưng người phụ nữ Sa-ma-ri – là dân ngoại – thì lại thật sự tin tưởng vào Đấng Mê-si-a mà chị được gặp lần đầu. Và thế là chị đang là người được Chúa Giê-su xin nước uống, đã trở thành người xin nước hằng sống.
Sở dĩ vậy, vì Đức Ki-tô đã khơi lên sự tò mò để người phụ nữ Sa-ma-ri tìm hiểu qua một công việc thường ngày là đến giếng kín nuớc về để giải toả cơn khát thể lý. Từ đó, Đức Giê-su gợi ý đến cơn khát tâm linh: Khát nước hằng sống. Câu chuyện chưa dừng lại ở đây, mà chuyển sang hướng khác, khi Đức Ki-tô đề cập đến đời sống riêng tư của người phụ nữ, mà cơn khát tình yêu dường như vẫn chưa được thoả đáng (đã sống với 5 đời chồng và hiện đang sống với người không phải là chồng mình). Đức Giê-su muốn người phụ nữ mở rộng tầm mắt để nhìn ra người đang nói chuyện với mình và quả nhiên chị đã nhìn ra. Với một người được gặp lần đầu tiên, mà người ấy lại biết rõ đời sống riêng tư của mình thì người ấy chỉ có thể là ngôn sứ ("Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ” – Ga 4, 19).
Tin người đối diện với mình là ngôn sứ, nên chị nêu thắc mắc không hiểu vì sao mà: "Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa." – Ga 4, 20). Đức Giê-su đã chỉ rõ cho chị biết là thờ phượng Thiên Chúa không phải ở núi này hay núi khác, ở chỗ này hay chỗ kia, mà là "Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật." (Ga 4, 24). Cuối cùng thì "Người phụ nữ thưa: "Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự." Đức Giê-su nói: "Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây." (Ga 4, 25-26). Và thế là “Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với mọi người: "Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?" Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.” (Ga 4, 28-30).
Chính cái quá khứ của người phụ nữ bị Đức Giê-su khơi lại, khiến chị ta tin tưởng vào những gì Người nói với chị và từ "người khát nước hằng sống" chị đã trở nên “người gieo” tin tức về một Đấng Mê-si-a mà chị đã được diện kiến. Như vậy, sau khi gặp “người xin nước” Giê-su, chị phụ nữ Sa-ma-ri đã tin và làm chứng cho Chúa Ki-tô giữa những người vốn được coi là dân ngoại, và chính những người này sau khi được gặp Chúa đã xin Chúa ở lại với họ và tuyên xưng: "Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian." (Ga 4, 42).
Tóm lại, chính là nhờ Đức Ki-tô đến xin nước mà người phụ nữ Sa-ma-ri có được cuộc gặp gỡ đổi đời: Từ một người tội lỗi trở thành người loan báo Tin Mừng về một Đấng Mê-si-a Cứu Độ nhân loại. Nói cách khác, người phụ nữ Sa-ma-ri nhờ cuộc gặp gỡ đổi đời, đã được chính Đấng Thiên sai đổi mới tận căn, và có lẽ đó là lý do Giáo hội chọn bài Tin Mừng này để vào CM III Mùa Chay. Cũng bởi vì “Mùa Chay là mùa thuận lợi cho việc đổi mới cuộc gặp gỡ của chúng ta với Chúa Ki-tô, cho việc sống trong lời Ngài, trong các phép bí tích và nơi những người láng giềng của chúng ta. Chúa, là Đấng đã chiến thắng sự lừa dối của tên cám dỗ trong bốn mươi ngày trong sa mạc, chỉ cho chúng ta thấy con đường chúng ta phải đi. Nguyện xin Chúa Thánh Thần dẫn đưa chúng ta vào một cuộc hành trình thực sự của hoán cải, qua đó chúng ta có thể tìm lại hồng ân lời Chúa, được thanh tẩy khỏi những tội lỗi làm mờ mắt chúng ta, và phục vụ Chúa Ki-tô hiện diện nơi những anh chị em cùng quẫn của chúng ta.” (Sứ điệp Mùa Chay 2017, số 3).
Ôi! Lạy Chúa! Suy niệm Lời Chúa hôm nay, chúng con mới hiểu ra rằng chúng con luôn luôn khát nước hằng sống, mãi mãi khao khát Lời Chân lý. Cúi xin Chúa đoái thương ban Thánh Thần giải tỏa cơn khát tâm linh cho chúng con, ban cho chúng con thứ nước chúng con uống vào sẽ không còn khát nữa, đó chính là thứ nước đem lại cho chúng con sự sống đời đời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
JM. Lam Thy ĐVD.
- Loại bài viết:
- Thể loại khác: