Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Cơn thịnh nộ bất thường

Tác giả: 
JM. Lam Thy ĐVD.

 

 

CƠN THỊNH NỘ BẤT THƯỜNG                    

  (CN III.MC-B)

 

Có thể nói chưa bao giờ thấy Đức Giê-su bộc lộ cơn giận như trong bài Tin Mừng hôm nay (CN III/MC-B – Ga 4, 14-16). Thánh sử Gio-an trình thuật: "Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." Nếu không được biết Đức Giê-su từ trước, mà chỉ nhìn hành động của Người xảy ra trước mắt, chắc chắn sẽ cho đó là một người cộc cằn thô lỗ, thiếu văn hóa. Nhưng nếu được diện kiến Người nhiều lần và chỉ cần nhìn theo con mắt trần gian cũng đã thấy được Đức Giê-su là một mẫu người rất hiền lành khiêm nhường và có một tấm lòng bao dung độ lượng không ai sánh kịp. Đến ngay như đám kinh sư luật sĩ Ít-ra-en vốn là những kẻ chỉ muốn tìm chứng cớ để hãm hại Người, vậy mà họ đã không tìm được khuyết điểm nào.

 

Còn nhìn theo lăng kính siêu nhiên thì vì Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nên bản tính của Người là nhân từ bác ái ("Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng." – Mt 11, 29-30).  Với một châm ngôn "Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế" (Mt 9, 13), Người luôn dạy dỗ các môn đệ một tình yêu vô bờ bến (yêu đến độ sẵn sàng hy sinh cả mạng sống cho người mình yêu, yêu cả kẻ thù – Mt 5, 43), một tấm lòng khoan dung độ lượng bao la (“ai tát mình má trái, thì hãy đưa cả má phải cho họ tát tiếp” – Mt 5, 39; tha thứ cho anh em đã xúc phạm đến mình không chỉ 3 hay 7 lần, mà là bảy mươi lần bảy – Mt 18, 21...) và một đức tính khiêm nhường tuyệt đối (“Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường, hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” – 1Pr 5, 5; “Thầy là Thầy là Chúa mà còn quỳ xuống rửa chân cho anh em thì anh em hãy rửa chân cho nhau” – Ga 13, 14). Vậy mà lần này Người đã nổi cơn thịnh nộ dữ dội như vậy là vì sao?

 

Đền thờ là biểu tượng ngôi nhà của Thiên Chúa, cũng là nơi dân Chúa tập trung để bày tỏ lòng tôn kính phụng thờ Đấng Toàn Năng hằng hữu. Vì thế, Đền thờ Giê-ru-sa-lem vào những ngày Sa-bát, nhất là những ngày đại lễ như lễ Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần, người Do Thái ở các nơi tề tựu hành lễ rất đông. Trong những dịp đó, dân chúng thường phải đổi tiền và mua các con vật như chiên, bò, bồ câu để dùng làm lễ vật dâng tiến theo nghi thức Do Thái giáo thời đó. Tuy nhiên, người ta đã lợi dụng dịp này, biến Đền Thờ thành chỗ buôn bán, đổi chác để kiếm lời, biến nơi linh thiêng thành chốn ô uế. Vấn đề đặt ra ở đây không phải là quy lỗi cho những người buôn bán, mà kẻ gây ra cảnh trái tai gai mắt như vậy thực chất là những người trông coi đền thờ (bọn luật sĩ, kinh sư Pha-ri-sêu). Họ đã làm ngơ để những bọn con buôn vào buôn bán, mà vì sao họ làm ngơ? Tất nhiên là vì lợi nhuận do đám người buôn bán đóng thuế hoặc ngầm ngấm đút lót hối lộ. Không đóng thuế hoặc hối lộ, chắc chắn không thể làm ăn gì được. Vì thế, nói đám người kinh sư luật sĩ làm ngơ còn là nhẹ, mà phải nói là họ đã cố tình để xảy ra tình trạng bát nháo trong đền thờ nhằm mục đích trục lợi cá nhân. Cơn thịnh nộ của Chúa là điều tất yếu vậy.

 

Hành động của Chúa Giê-su không chỉ đơn thuần là xua đuổi các con buôn, đụng chạm đến quyền lực và lợi nhuận của hàng tư tế, nhưng sâu xa hơn, đó là Người phủ nhận hoàn toàn cung cách thờ phượng đã biến chất (chẳng khác gì cảnh buôn thần bán thánh diễn ra nhan nhản ở thế kỷ XXI này). Ngoài ra, thông qua việc tẩy uế đền thờ được xây dựng bằng vật chất, Chúa Giê-su còn giới thiệu ngôi đền thờ đích thực là chính thân thể Người (“Người Do Thái hỏi Đức Giê-su: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” Đức Giê-su đáp: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại.” Người Do Thái nói: ”Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?” Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Vậy khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói.” – Ga 2, 18-22).

 

Ngoài ra, Người còn muốn nhắc đến ngôi Đền Thờ tâm linh, như Lời Người trao đổi với người phụ nữ Sa-ma-ri: "Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” Người phụ nữ thưa : "Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự." Đức Giê-su nói: "Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây." (Ga 4, 21-26).

 

Cũng đã có nhiều người cho rằng khi trả lời người phụ nữ Sa-ma-ri, Đức Giê-su đã phủ nhận những đền thờ xây dựng bằng vật chất, vậy tại sao Người lại nổi giận xua đuổi người buôn bán ra khỏi đền thờ Giê-ru-sa-lem và nói đó là "nhà Cha tôi"? Đức Giê-su không phủ nhận, vì – hơn ai hết – Người hiểu rất rõ Đền thờ xây dựng bằng vật chất là một biểu tượng không thể thiếu cho lòng tôn kính thờ phương của loài người đối với Đấng Tối Cao. Loài người với nhãn quan và tâm lực trần tục, thường thì phải có một điểm tựa, một điểm xuất phát hiện thực, để từ đó hướng tâm hồn lên cõi siêu linh. Nói cách khác, tâm lý chung của loài người chỉ thích được “thực mục sở thị” (trông thấy nhãn tiền) mới tin. Vì thế, Đức Ki-tô nổi cơn thịnh nộ là nhằm xác định tầm quan trọng của nơi thờ phượng Thiên Chúa (Đền thờ xây dựng bằng vật chất), nhiên hậu Người mới dẫn mọi người tới ngôi Đền thờ đích thực là nơi cung lòng mỗi người và cuối cùng là đích điểm: "Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người" (Ga 2, 21).

 

Rõ ràng là Đức Giê-su Ki-tô đã một lần nữa nhắc lại Lời dạy đừng chú trọng hình thức bên ngoài mà phải coi trọng cái cốt lõi, cái chân lý đích thực ẩn kín bên trong. Đừng khua chiêng gõ mõ khi làm việc thiện, đừng đứng ở ngã ba ngã tư lải nhải khi cầu nguyện; cũng vậy, việc thờ phượng Thiên Chúa không cứ ở núi này núi nọ, đền nọ miếu kia, mà phải là "thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật". Và cũng chính điều đó khiến đám luật sĩ đặt câu hỏi: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?" và được Đức Giê-su trả lời: "Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại." (Ga 4, 18-19).

 

Đền thờ Giê-ru-sa-lem là một công trình xây dựng ròng rã 46 năm mới xong, vậy mà phá bỏ đi, chỉ cần ba ngày là Đức Giê-su sẽ xây lại được! Ai nghe cũng thấy là chuyện không tưởng, nên chẳng lạ khi thấy đám "Người Do Thái nói: "Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?" (Ga 4, 20). Đến như vậy mà đám người Do Thái vẫn chưa sáng mắt thì làm sao mà sáng lòng cho nổi! Chỉ đến khi Sự Thật phơi bày, mới đấm ngực thốt lên: "Quả thật người này là Con Thiên Chúa" (Mt 27, 54). Lời tiên báo của Chúa đã thành hiện thực: Ngôi Đền Thánh Giê-su Ki-tô bị dân Do Thái phá huỷ tan tành, thì ngày thứ ba đã khôi phục hoàn toàn, tráng lệ hơn, sáng láng hơn: Chúa đã phục sinh vinh hiển.

 

Đối với Ki-tô hữu ngày nay thì sao? Tất cả những sự kiện và Lời dạy của Chúa đã được lịch sử chứng minh rất cụ thể và được trình thuật lại trong Kinh Thánh thật chi tiết, không còn cảnh như mấy người Do Thái ngơ ngác tự hỏi "xây một Đền thờ hoành tráng như thế mà chỉ trong 3 ngày thôi ư?" Tuy nhiên, có một điều mà nhiều người vẫn chưa  ý thức được, đó là ngôi Đền thờ do chính Đức Giê-su xây dựng là Giáo hội cho đến nay, đã hơn 2000 năm trôi qua, tuy rằng rất nguy nga lộng lẫy, nhưng vẫn thực sự chưa được tẩy uế như mong muốn của Người đã xây dựng nên (Đức Giê-su). Thật thế, những lầm lỗi khiếm khuyết của Giáo hội xuyên qua lịch sử 20 thế kỷ, cũng không phải là it. Bởi vậy ngày 12/3/2000, Thánh GH Gioan-Phaolô II đã chính thức thanh tẩy Giáo hội vì “các tội đã phạm trong khi phục vụ chân lý, các tội đã làm tổn thương đến sự hiệp nhất Ki-tô giáo, các tội chống lại dân tộc Israel, các tội chống lại tình yêu, hòa bình và kính trọng đối với các nền văn hóa và các tôn giáo, các tội chống lại phẩm giá của người phụ nữ và sự hiệp nhất của loài người, và các tội phạm đến các quyền cơ bản của con người.” (theo "VietCatholic –19/3/2000"). Không những chỉ là dịp này, mà trong suốt triều đại, Thánh GH Gioan-Phaolô II đã đề ra phương châm và cùng với Giáo hội thực hiện một cách cụ thể và hữu hiệu: "canh tân và sám hối".

 

"Lầm lỗi là bản tính của con người", chuyện đó không có gì đáng trách, nhưng nó sẽ thật sự đáng trách phạt nếu người lầm lỗi không nhìn ra được mà ăn năn hối cải để xin ơn tha thứ như Thánh GH Gioan-Phaolô II đã làm. Ngoài ngôi đền thờ chung là Giáo hội, mỗi Ki-tô hữu còn là ngôi Đền thờ của Chúa Thánh Thần. Muốn thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật, thì xuất phát điểm phải là Đền thờ Thánh Linh nơi cung lòng mỗi người phải luôn được thanh tẩy hàng ngày, hàng giờ. Khi nhắc đến công việc tẩy uế ngôi Đền thờ Thánh Linh trong cung lòng mỗi Ki-tô hữu, có người thì cho rằng "Chuỵên nhỏ! Chỉ cần đến toà hoà giải là mọi chuyện xong xuôi hết!"; nhưng cũng không ít người thì cho rằng khi "bàn tay đã chót nhúng chàm" khó lòng tẩy sạch, thì chi bằng nhúng chàm luôn cả thân mình cho yên chuyện.

 

Cả 2 thái độ cực đoan ấy (một bên thì lạc quan tếu, còn một bên thì bi quan thái quá) đều không thể chấp nhận. Anh đến toà hoà giải là để xin ơn tha thứ, Chúa luôn sẵn sàng "cho" nhưng anh có biết dọn dẹp cung lòng và mở rộng cửa lòng đón "nhận" hay không. Đến toà hoà giải lấy lệ và theo luật, mà cửa lòng cứ khép kín, cung lòng không tẩy uế, thì cũng chẳng khác gì xua đuổi hơn là đón tiếp, liệu Chúa có vào cung lòng anh được không? Còn anh bi quan thái quá cũng không được. Anh nên nhớ ngôi đền thờ Chúa Thánh Thần nơi con người anh là do chính Thiên Chúa tạo dựng, không lý gì Người lại bỏ rơi anh, dù ngôi đền ấy có rác rưởi dơ dáy đến đâu chăng nữa. Điều quan trọng là bản thân anh có thực lòng muốn và quyết chí thanh tẩy hay không mà thôi. Nếu lòng anh đã mở, chí anh đã quyết, Thiên Chúa sẽ ban Thần Khi và anh sẽ được sạch. Hãy in sâu vào tâm trí câu châm ngôn của Thánh Au-gus-ti-nô: “Thiên Chúa có thể dựng nên chúng ta mà không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng Người không thể cứu rỗi chúng ta nếu chúng ta không ưng thuận.” ("Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài" – ibid).

 

Nói tóm lại, ngôi Đền Thánh Linh nơi cá vị mỗi Ki-tô hữu cũng như ngôi Đền Giáo hội đều rất cần được thanh tẩy. Tất nhiên, với ngôi đền Giáo hội thì không thể chỉ ỷ lại vào một mình Đức Giáo hoàng, cũng như ngôi Đền Thánh Linh cá vị chỉ trông cậy vào vị Mục tử đại diện Chúa Ki-tô nơi toà hoà giải. Các ngài không thể làm gì được nếu không có sự đồng lòng, quyết tâm nơi mỗi Ki-tô hữu cũng như toàn thể Giáo hội. Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa hãy ban Thần Khi cho chúng con, để chúng con vững lòng tin cậy, biết tôn trọng bảo vệ sự trong sáng ngôi đền thờ Giáo xứ, Giáo họ, Giáo phận và Giáo hội toàn cầu; đặc biệt biết sửa sang dọn dẹp ngôi Đền thờ tâm hồn của chúng con để Chúa yêu thương ngự trị.

 

Ôi! “Lạy Chúa là Ðấng rất từ bi nhân hậu, Chúa đã từng chỉ dạy chúng con cách chữa lành những vết thương tội lỗi: là ăn chay hãm mình, siêng năng cầu nguyện và chia cơm sẻ áo cho kẻ khó nghèo. Này chúng con nhận biết mình yếu hèn lầm lỗi, và hết lòng sám hối ăn năn; xin Chúa thương đoái nhìn chúng con và đưa tay nâng đỡ. Chúng con cầu xinnhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN III MC-B).

 

JM. Lam Thy ĐVD.