Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Lòng Chúa Thương Xót

Tác giả: 
JM. Lam Thy ĐVD.

 

 

LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT               

  (CN II.PS-B – Chúa nhật Lòng Thương xót Chúa)

 

Bài Tin Mừng hôm nay (CN II/PS-B – Ga 20, 19-31) nói đến thái độ của Tông đồ Tô-ma. Trong khi bà Maria Mac-đa-la và 2 môn đệ trên đường Em-mau được chứng kiến Đức Giê-su Ki-tô đã sống lại, nhưng khi họ kể lại cho các môn đệ khác thì mọi người vẫn không tin. Chỉ đến khi Chúa hiện ra với các ông vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, các ông mới chịu tin. Tuy nhiên, khi các môn đệ này kể lại cho Tô-ma, thì ông cũng không tin và đòi phải được xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn Thầy, thì ông mới tin. Mãi tới “Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." Rồi Người bảo ông Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." Tới lúc đó, Tô-ma mới thực sự tin và kêu lên: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" (Ga 20, 26-28).

 

Tâm lý chung của con người chuyện gì cũng đòi phải được “chứng kiến tận mắt” (thực mục sở thị) hoặc phải có chứng cớ xác thực, mới chịu tin. Các Tông đồ (kể cả Tô-ma) cũng không ngoại lệ, các ông mới chỉ “nghe” thì chưa tin mà còn phải được “thấy”, được “đụng vào” vật chứng mới tin. Không những thế, mà nhiều khi được chứng kiến tận mắt, cũng vẫn còn có kẻ “không tin vào mắt mình”, mà lại đi tin vào những truyền thuyết hoang đường, những ma mị quỷ quái. Và cũng chính cái tâm lý chỉ tin khi được “thực mục sở thị” đã đẻ ra tâm trạng hoài nghi. Thật thế, chỉ vì được trông thấy nhãn tiền Thầy mình đã chết khổ nhục trên thập giá, đã được chính tay mình liệm xác Thầy và táng trong hang đá, thì làm sao tin được Thầy mình đã sống lại? Và vì thế nên khi thấy Thầy hiện ra thì “Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma”.(Lc 24, 37). Ấy là chưa kể lúc Thầy còn sống và ở liền bên không rời một bước, vậy mà khi thấy Thầy đi trên mặt biển đã vội hô hoán lên là “ma đấy!”

 

Nói về niềm tin của con người thì rất đa dạng: Có những người dễ tin thì cũng có những người khó tin, có những người tin một cách sáng suốt thì cũng không ít những kẻ tin một cách mù quáng, có những người trông thấy nhãn tiền mà vẫn “không tin vào mắt mình” thì cũng có những kẻ chẳng cần biết ất giáp gì cũng cứ “nhắm mắt mà tin”. Dễ tin thì cũng dễ mất lòng tin (dễ tin trong trường hợp này thì cũng dễ tin trong trường hợp khác, thậm chí có những lúc các trường hợp đó trái ngược nhau cũng vẫn OK tuốt luốt, nên lúc gặp thử thách rất dễ bị chao đảo, đánh mất niềm tin). Ấy là chưa nói đến những trường hợp tin theo thói quen, theo truyền thống, tin hùa theo đám đông (a dua, a tòng), tin theo mê tín dị đoan. Những kẻ khó tin thì thường đòi hỏi đầy đủ chứng cớ mới tin và khi có đầy đủ chứng cớ rồi thì niềm tin trở nên kiên định (kiểu như Tông đồ Tô-ma thủa xưa). Tuy nhiên cũng không thiếu những kẻ khó tin, mà vì quá cực đoan nên rất dễ sa vào chủ thuyết hoài nghi (chẳng tin vào bất cứ chuyện gì cho dù đó có là sự thực hiển nhiên).

 

Chính vì thế, Đức Tin là một yếu tố quan trọng hàng đầu đối với mọi tôn giáo. Riêng đối với Ki-tô Giáo thì đức tin là cơ sở vững chắc tuỵêt đối để đạt được cứu cánh Nước Trời. Tâm lý con người kể cũng lạ, cứ đòi “thấy” nhãn tiền mới tin, nhưng nhiều khi được “thấy” tận mắt cũng vẫn bán tín bán nghi. Vì thế Đức Ki-tô mới dạy: "Phúc thay những người không thấy mà tin!" (Ga 20, 29). Quả thật “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11, 1). Tuy nhiên, nếu chỉ tin trên môi miệng mà trong lòng thì trống rỗng, cũng chưa thể kể được là tin, mà phải là “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. Quả thế, có tin thật trong lòng mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng mới được ơn cứu độ.” (Rm 10, 9-10).

 

Thánh Gia-cô-bê Tông đồ còn xác quyết mạnh hơn: “Nhờ hành động mà con người được nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi… Một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết.” (Gc 2, 24.26). Vì thế, hai khía cạnh “tin thật trong lòng” và “tuyên xưng ngoài miệng” phải được xem là “tuy hai mà một”, bởi “lòng có đầy miệng mới nói ra” (Mt 12, 35). Thật vậy, lòng còn hoài nghi mà miệng leo lẻo nói tin tưởng, hoặc giả trong lòng tuy có tin, nhưng bề ngoài thì sợ nọ sợ kia, sợ bóng sợ vía cứ “câm miệng hến” thì cũng kể như không. Mà cũng vì thế, mọi Ki-tô hữu “Hãy xây dựng đời mình trên nền tảng đức tin rất thánh của anh em, hãy cầu nguyện nhờ Thánh Thần.” (Gđ 1, 20).

 

Đặt giả thử trong một gia đình có những người con không chịu tin vào những lời dạy bảo, những việc làm của cha mẹ, mà chỉ tin và nghe lời của những người hàng xóm lắm chuyện, thích “thọc gậy bánh xe”, hoặc của những ông thầy, bà mụ huyễn hoặc, thì liệu những đấng sinh thành có tha thứ không? Chắc chắn là không! Nếu chẳng nổi cơn thịnh nộ đánh cho một trận nhừ tử thừa sống thiếu chết rồi tống ra khỏi cửa, thì ít nhất cũng lạnh lùng coi như không có những người con bất hiếu bất mục đó. Và chuyện này cũng lại là chuyện xưa như trái đất, chẳng có gì là trái thường nghịch lý cả. Con người mà! Hỷ nộ ái ố là đương nhiên thôi!

 

Còn với chàng thanh niên Giê-su con bác thợ mộc Giu-se và bà nội trợ Maria – cũng như những chàng thanh niên bằng xương bằng thịt khác trên đời – thì sao? Lạ lắm! Chàng không chỉ khoan dung với những học trò hoài nghi, mà còn tha thứ cho những kẻ đã bán rẻ mình cho quân dữ, thậm chí còn cầu xin với Cha trên trời tha thứ cho cả những kẻ đã đánh đập, đã đóng đinh mình trên thập tự nữa (“Lạy Cha xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” – Lc 23, 34). Ấy cũng bởi vì chàng chính là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, đến thế gian để kêu gọi người tội lỗi và hy sinh cả mạng sống mình làm giá chuộc muôn người. Tuy nhiên, loài người vẫn còn quá nhiều những kẻ không tin hoặc giả có tin thì cũng chỉ là tin trên môi mịêng bề ngoài mà thôi.

 

“Có hai khía cạnh trong mầu nhiệm Vượt Qua: Đức Ki-tô chết để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, và phục sinh để mở đường vào cuộc sống mới… Cuối cùng, sự phục sinh của Đức Ki-tô, cũng như chính Đức Ki-tô Phục Sinh, là nguyên lý và nguồn mạch sự sống lại của chúng ta mai sau.” (Giáo lý HTCG, số 654-655). Chính vì thế, Mầu nhiệm Phục Sinh Cứu Độ – bao hàm sự đau khổ, sự chết, sự mai táng, sự phục sinh và thăng thiên của Chúa Cứu Thế, đồng thời với việc gởi Chúa Thánh Thần đến, phải được kể là một Thông điệp Đức Tin từ Trời cao ban cho toàn thể nhân loại, đó là Thông điệp “Lòng thương xót của Thiên Chúa”. Vâng, Người mang Thông điệp này đến và thực hành cho nhân loại, chính là Đức Giê-su Ki-tô Phục Sinh. Người đã đến vì "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này: 'Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi." (Mt 9, 12-13).

 

Chính Đức Giê-su là biểu tượng duy nhất của “Lòng Chúa thương xót” và cũng chính Người trao sứ vụ cho các Tông đồ tiên khởi đem Thông địêp này đến với muôn dân: ”Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20, 21-23). Lòng Thương xót của Thiên Chúa trải dài theo lịch sử loài người từ khi được dựng nên cho đến ngày cánh chung, nhưng tập trung nhất vẫn là thời điểm mạc khải mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh của Con Một Thiên Chúa: Đức Giê-su Ki-tô. Người đã đến, đang đến và sẽ đến như Lời Người mạc khải cho Thánh Nữ Faustina Kowalska (1905-1938): "Trước khi Ta đến là một Đấng Thẩm Phán công chính, thì Ta đến trước hết là một "Vua Lòng Thương Xót". Hãy nói cho nhân loại biết ngay lúc này hãy đến trước ngai tòa của Lòng Thương Xót Ta với sự tin tưởng tuyệt đối!" (Nhật ký "Lòng Thương xót Chúa” – Faustina Kowalska).

 

Thật vậy, Chúa Giê-su đã đích thân chỉ định theo ý muốn của Người khi Người nhấn mạnh: “Hãy làm tất cả những điều mà các con có thể làm cho công việc của Lòng Thương Xót” (Nhật ký "Lòng Thương xót Chúa” – Faustina Kowalska). Vì thế, trong buổi lễ phong Thánh cho nữ tu Faustina vào ngày 30/4/2000, Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã tuyên bố: “Một điều rất quan trọng là chúng ta nên công nhận toàn bộ thông điệp đã đến với chúng ta qua Lời của Chúa trong ngày Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh, vì thế, từ đây trở đi toàn thể Giáo Hội sẽ tuyên xưng ngày này là “Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa”. Và đến ngày 23/5/2000, Thánh Bộ Phụng Tự đã ra quyết định chính thức chọn ngày Chúa Nhật II Phục Sinh là Lễ kính “Lòng Thương Xót Chúa”.

 

Cũng trong bài giảng tại lễ phong thánh cho nữ tu Faustina như nêu trên, Thánh GH Gioan-Phaolô II còn xác quyết: ”Cũng như Thánh Faustina, chúng ta cũng tuyên xưng rằng ngoài Tình Chúa Thương Xót, không còn nguồn hy vọng nào khác cho nhân loại. Chúng ta cùng hết lòng tin tưởng kêu lên Chúa: “Lạy Chúa Giê-su, con tin tưởng nơi Chúa”. Một năm sau, vào Chúa nhật II Phục Sinh năm 2001, trong Thánh lễ kính Lòng Thương xót Chúa, Thánh GH dâng lời tạ ơn:  “Con xin cảm tạ Chúa, một năm trước đây đã ban ơn cho con để con tuyên bố cho toàn thể Giáo Hội Chúa Nhật Thứ II Phục Sinh là ngày lễ Tình Thương Xót của Chúa.”

 

Ôi! Lạy Chúa! Chúng con xin "tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, đến muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương" (Tv 118, 1). Ôi! “Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, hằng năm Chúa dùng ngọn lửa Phục Sinh để khơi lại niềm tin trong lòng dân thánh, cúi xin Chúa gia tăng ân sủng để chúng con hiểu rằng: chính Chúa Ki-tô đã thanh tẩy chúng con bằng phép rửa, để tái sinh chúng con bằng Thánh Thần và cứu chuộc chúng con bằng Máu Thánh. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thủa muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Chúa nhật II – Phục Sinh). 

 

JM. Lam Thy ĐVD.