Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Khi em lạnh, tôi biến thành ngọn lửa

Tác giả: 
Mai Tá

 

 

Suy niệm Lời Ngài đọc trong tuần thứ 15 Thường niên năm C 14.7.2013

 

“Khi em lạnh, tôi biến thành ngọn lửa,”

“đốt thương yêu, than nóng hực ân tình.”

(dẫn từ thơ Du Tử Lê)

 

Lc 10: 25-37

            Ân tình hực nóng, đã trở thành lửa ân tình đà thấy rõ nơi các nhân vật ở trình thuật, hôm nay.

 

            Trình thuật hôm nay, thánh Luca kể về ân-tình lành thánh của người ngoài đã đối-xử với dân con trong Đạo, vẫn chưa quên. Đọc trình thuật, người đọc thấy rõ cung cách người ngoài Đạo tận tình chăm sóc kẻ bị nạn, bất kể họ thuộc nhóm/bè nào, vẫn có nhu-cầu cơ bản để sống còn. Nhu cầu kẻ bị nạn, vẫn thường lệ-thuộc vào sự chăm sóc của người khác cả về: thời gian, năng lượng và tài-nguyên của người giùm giúp. Sự chăm sóc, xuất từ người ngoài Đạo dồi dào, vượt trội, theo cách riêng tây, chứng tỏ quan hệ tốt giữa kẻ cho và người nhận, thật đặc trưng. Và “người cho” hôm nay, không cân đai/áo mão nên chẳng ai rõ lý lịch của người ấy đến thế nào.

 

            Chỉ biết: nhu-cầu căn bản để sống còn, là điều mà đa số nữ-phụ ở đời cần nhiều hơn nam giới. Bởi, nữ-giới ở đời phải sinh con đẻ cái, rồi tạo thức ăn dinh-dưỡng cho trẻ bé, cả đến nơi ở, quần áo, tình cảm lẫn mối quan hệ xã giao, vẫn là nhu cầu bức thiết để giữ mọi người ở lại với mình. Bậc nữ-lưu trong xã-hội, luôn có nhu-cầu của cuộc sống hằng ngày; thế nên, mẫu-mã quan-hệ giữa người cho và người nhận là đặc-thù của hai người, ở đây là: mẹ-con.

 

            Tân Ước, nhấn mạnh nhiều về lòng mến trải dàn nơi mọi người, trong ngoài nhà Đạo. Tân Ước còn tỏ cho thấy tính phổ-cập nơi lửa ngọn thương yêu/chăm sóc giữa dân con đồ đệ của Chúa, nữa. Tuy là thế, tính phổ-cập của lòng mến diễn tả vào tình huống rất căng, luôn ganh đua/tị nạnh với “tương-quan chăm sóc” như vừa nói. Tương-quan chăm sóc, cũng mang tính phổ-cập cả bên ngoài vũ trụ, chứ không chỉ là cá nhân riêng lẻ, của một ai. Tính phổ-cập kiến-tạo sự đồng đều cho những ai cần chăm sóc, bất kể họ có khác biệt về tôn giáo, sắc tộc hoặc văn hoá, như trình thuật viện dẫn. Tính-chất ấy, đòi mọi người phải biết quan tâm đến kẻ bị nạn, bất kể kẻ ấy, người nọ có đòi hỏi, kêu cầu gì nơi người “qua đường” hay không.

 

Tường trình về “lòng mến” có sự chăm sóc trong vũ trụ lại cũng đáp ứng tính hấp-dẫn đặc biệt của một số người gọi đó là ích-kỷ hoặc ham-mê quá độ, thấy khá nhiều. “Lòng mến” vẫn vượt trội quan-hệ tư riêng, cục bộ; từ đó đi đến kết quả, là: nếu ta để tâm đến nhu cầu vật chất tư riêng, theo cách tập trung, ắt hẳn ta sẽ tạo sức ép linh-thiêng, nên tồi tệ. Đôi lúc, cũng nên tạo ấn tượng để người người hiểu rằng tương-quan chăm sóc đặc biệt, là kết quả do ta chọn. Nhờ đó, ta trở thành người tốt lành, mang chất Kitô nhiều hơn, khi có khả năng vinh-thăng mọi việc. Và, trở thành “người có lòng với vũ trụ” nhiều hơn, mà không cần ứng đáp với người được chăm-sóc, nhất là khi đối xử với họ một cách ngang bằng, đồng đều.

 

Thật cũng dễ, để nói rằng: động thái yêu thương mang tính-chất toàn cầu, trong khi con người lại cứ hành-xử theo cách riêng tư, cục bộ. Khi đã yêu thương rồi, ta lại sẽ đạt trạng huống đến với nhiều người có nhu cầu nhiều hơn ta. Trong khi đó, ta lại không thể làm cả hai việc cùng một lúc và không thể chăm sóc nhiều người cho đồng đều, được. Chính vì thế, văn hoá của ta xem ra cũng khác với động thái phòng-ngừa tệ hại xảy đến với mọi người và động thái đầu tư năng lượng nơi người khác, nữa.

 

Thông thường, ta vẫn muốn phòng ngừa mọi tệ hại đem đến cho người khác. Nhưng, qua tư cách cá-thể, ta không tài nào làm được việc ấy, nên mới chuyển qua hệ thống rộng lớn hơn, dù hệ thống ấy không tránh được tình huống thiếu phẩm chất. Thành ra, ta có tự do đeo đuổi các chọn lựa tư riêng –dù chọn lựa ấy mang tính chuyên quyền, độc đoán- mỗi khi ta đầu tư năng lượng của riêng mình nơi những người do ta chọn lựa. Nói cách khác, là nói như người xưa: “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.

 

Bởi thế nên, những người được ta thương yêu /săn sóc sẽ trở thành bạn bè người thân, cũng rất gần. Và, thông thường thì: những người do ta chọn để giúp đỡ, lại không liên can gì đến ta, mà chỉ như người lạ, và có khi còn trở thành kẻ thù vì hãi sợ ta, nữa.

 

Ở đây, còn thấy có giòng lịch sử về tình bạn mà, với xã hội, tình này đà đổi thay khá nhiều. Vào thời trước, tình bạn xuất từ những người cùng quá trình lý lịch hoặc ở chòm xóm, chung một sở làm. Những người như thế, thường giúp đỡ nhau và trở thành bạn bè không theo nghĩa lựa chọn riêng tư do sự kiện cùng sinh ra từ một nhóm, chứ không phải từ người ngoài.

 

Trong sống đời bình thường ở xã hội, ta luôn có nhu cầu vật chất, ngang qua thương-trường nội bộ. Và, nhờ chính sách an toàn của quốc gia mình sinh sống, ta vẫn được bảo vệ, rất an toàn. Thế giới ta sống hôm nay, có hằng hà sa số những loại chăm sóc đặc trưng và có cả những người không được thế, nên mới tìm đến các chăm sóc thấp hèn từ cơ sở tìm việc làm. Những người này thường bị bóc lột nhiều thứ, như: lương quá thấp hoặc điều kiện làm việc không tương xứng với khả năng, cơ chế xã hội không được công nhận. Phần đông những người như thế chỉ là các “chị giúp” hoặc “người ở”, cần chút thu nhập để còn sống.

 

Người Samaritanô hiền từ, chẳng bao giờ đặt vấn đề lý thuyết như thế. Ông chỉ dừng chân đứng lại để tương-tác với những người đang ở trước mặt ông, lại có nhu-cầu rất bức-thiết. Đôi khi, mọi người đều thấy khó trở thành người Samaritanô hiền-từ rất toàn thời. Càng khó hơn, khi phải tra tay chăm sóc giúp đỡ khá nhiều cùng một lúc. Vì thế, cũng có nhiều vấn đề khác liên quan đến quan-hệ giữa kẻ chăm sóc và người nhận.

 

Theo định nghĩa, vẫn thấy có tương-quan không đồng đều giữa hai loại người này. Với người được săn sóc, thì vấn đề là sự tin tưởng. Còn, với người kia, đó lại là tương-quan hiểu biết và khả năng làm được gì cho người. Điều cần làm, là: cốt sao xứng-hợp với tự do của người nhận. Tự do đây, không mang ý nghĩa của “tự túc, tự lực”, tức: được coi như lệ thuộc nhau, trong kết đoàn. Tương-quan đây, không có nghĩa như tương quan giữa quyền bính và uy-lực. Trong đó, có chức năng mới của những lo toan dựa trên quan-hệ bình thường và loại hình mới về tình bạn, giữa hai người.

 

Xã hội hiện nay, người người trở nên thận-trọng lo-lắng chứ không xả thân lo toan cho người khác. Bởi ngày nay, người người dựng xây nhiều dịch-vụ “lo” cho sức khoẻ của mình, nên đã phòng ngừa nhiều thứ. Ngày nay, người ta sống chường mặt với hiểm nguy đủ loại, nên chú trọng nhiều đến những tiêu cực hơn sống tích-cực. Có làm gì, thì rồi ra ta cũng đều sẽ chết tại bệnh viện; và nhiều người rồi cũng chết sau khi được săn sóc đủ điều nhằm làm nhẹ bớt nỗi đau triền miên. Nhưng họ quên rằng: trong sống đời thực tế, mình cũng từng tự chăm sóc cho mình, y như thế. Con người ngày nay lại quá thận trọng, phòng ngừa và âu lo cho nỗi đau đến phải sống cuộc sống đang từ từ xảy đến.

 

Vậy nên, vấn đề hỏi rằng: ta sống để làm gì? Con người được dựng ra là để sống cho tình bằng hữu; và, cộng đồng nhân loại được dựng xây là để tỏ lòng mến, hiếu khách, đỡ đần nhau, mới đúng.

 

Thế giới ngày nay, những người bị coi là tật nguyền/khiếm khuyết vẫn có ơn “gọi” đặc biệt. Ơn gọi của người khuyết/tật quyết đem Tin Mừng đến với những người được coi là độc-lập, khoẻ mạnh và thành đạt. Người khuyết tật, luôn giúp người lành mạnh để người lành và thấy được rằng: là người, tức mình sẽ bị hạn chế, dễ gãy và luôn có nhu cầu bức thiết. Thế nên, ta chỉ là ta, khi ta có quan hệ tương-tác với những người đang cần ta đến giúp đỡ. Giúp, mà không coi đó như dấu hiệu của yếu kém, lận đận mà vì nhân loại được tạo dựng vẫn cần đến “cứu rỗi”. Ai ai cũng dễ bị gãy đổ, mỗi người một cách. Ta được gọi là để nhận ra điều đó. Ta được gọi, còn để lướt thắng nó mà mừng sự kiện: tất cả đều cùng một Thân Mình Đức Kitô, mà thôi.

 

Người bị gãy đổ, sẽ càng thấy rõ mình có ơn “gọi” đặc biệt hơn. Có nhiều loại gãy đổ được thấy rõ ràng, đặc trưng hơn. Như trường hợp của người khiếm-thị, chẳng hạn, nội sự kiện họ bị mù hoặc sắp thành mù-loà lại cũng giống như máy hút bụi to lớn đang đi vào cuộc sống sẽ hút tất cả mọi sự đi nơi khác. Từ đó, sẽ tạo khủng hoảng về lý lịch. Bởi, lý lịch con người đều đặt căn bản trên việc gom gộp mọi thứ, chứ không tẩy trừ tất cả, ra hư không. Niềm tin cũng thế, phải mang tính đại-kết theo nghĩa chữ và phải bao gộp mọi người, chứ không chỉ những người cùng bộ tộc mình thôi, rồi đẩy lùi những người khác mình. Ta phải vượt trội tính khác biệt, để rồi sẽ liên kết mọi người lại với nhau. Điều này, nên hiểu cho đúng cách hơn, nhất thứ là khi ta đối xử với người có khuyết tật về tâm trí; và cả những người có khó khăn về ngôn ngữ, cũng thế.

 

Trở lại vấn đề: nếu không thể yêu thương và chăm sóc hết mọi người, thì ta làm cho ai đây? Tác giả người Pháp nọ có đề cập đến những người mà ông gọi là “người nghèo được chọn lựa”. Cuối cùng, rồi ra ta cũng đi đến đoạn kết cục là: chăm lo cho người nghèo và người có nhu cầu do ta chọn. Họ là những người do ta đã chọn; nên, mới tỏ bày tình bằng-hữu với họ và mới chọn cùng sống với họ và giống như họ trong Thân mình của Chúa. Có như thế, ta mới nhận được quà tặng trở thành Kitô-khác đối với người nghèo khó. Giả như ta có quyền và có thể chấm dứt hệ thống giai cấp, đặc quyền tồn đọng nơi thế giới phàm trần, thì chắc hẳn ta cũng sẽ đổi mới được nhiều thứ, nhiều sự.

 

Kitô-hữu thời tiên khởi, cũng đã chăm sóc cho người nghèo hèn, côi cút,các  bà goá và những người bị cầm cố, thấp hèn. Làm thế, không có nghĩa là các ngài ném tiền vào các chương trình này/khác để giúp người nghèo. Nhưng thực sự, các ngài đã biết lo toan cho người nghèo, trên thực tế. Đây là yếu tố khiến người La Mã dựa vào đó mà phân định ai là Kitô-hữu, ai không, bằng vào sự thể là: những người như thế biết chăm lo cho người khác nhiều hơn thế. Chí ít, là người nghèo đói, có nhu cầu hơn chính mình.     

 

Trong cảm nghiệm sự cần thiết lo toan giúp đỡ mọi người, ta cũng nên ngâm lại lời thơ trên, rằng:

 

“Khi em lạnh, tôi biến thành ngọn lửa,”

“đốt thương yêu, than nóng hực ân tình.”

(Du Tử Lê – Hiến Chương Yêu)            

                         

            Chăm lo cho mọi người, nơi Đạo Chúa, lại trở thành “Hiến Chương” yêu thương vẫn sáng tỏ trong đời người. Một đời, có Đức Chúa làm mẫu mực, để ta theo.

 

            Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh – Mai Tá lược dịch