Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Tứ hải giai huynh đệ

Tác giả: 
JM. Lam Thy ĐVD.

 

 

TỨ HẢI GIAI HUYNH ĐỆ (CN XV/TN-C)

 

Bài Tin Mừng CN XV/TN-C (Lc 10, 25-37) trình thuật câu chuyện một người thông luật “hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Lại thêm một trường hợp những luật sĩ, kinh sư Pha-ri-sêu đến “thử” Đức Giê-su. Thay vì trả lời, Đức Giê-su lại hỏi ngược lại để xem thử ông ta “thông luật” đến cỡ nào: "Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?" Ông ta đành tự trả lời câu hỏi của mình: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình." (Lc 10, 28). Tới đó, Đức Giê-su mới trả lời thẳng váo thắc mắc lúc đầu của “nhà thông luật”: "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống."

 

Cứ tưởng như thế thì “nhà thông luật” sẽ “câm miệng hến”, không ngờ ông ta lại “muốn chứng tỏ là mình có lý” để tiếp tục “thử” Đức Giê-su: "Nhưng ai là người thân cận của tôi?" Hỏi câu này, ông ta đã dựa theo lẽ thường tình thế sự vẫn quan niệm “người thân cận” là những người gần gũi, thân thiết như cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, họ hàng, bạn bè … (như trong từ “thân nhân: người thân”, “thân phụ: cha”, “thân mẫu: mẹ”, “thân thích: họ hàng nội ngoại” v.v… vẫn thường dùng). Và vì thế Đức Giê-su phải kể một dụ ngôn “Người Sa-ma-ri tốt lành” và từ dụ ngôn ấy, Người lại đặt câu hỏi để chính người thông luật tự tìm ra định nghĩa trả lời cho câu hỏi của mình.

 

Như vậy, “người thân cận” trong dụ ngôn của Đức Ki-tô không phải là họ hàng máu mủ ruột thịt, mà lại là một người xa lạ, một người bất chợt gặp trên đường đời. Nghe ra có vẻ nghịch lý, bất bình thường (một người chưa hề quen biết, bất chợt gặp trên đường mà lại được coi là “thân cận” ư?). Tuy nhiên, nếu suy cho cùng, thì sẽ thấy là mặc dù sống gần gũi nhau nhưng chưa chắc cha mẹ, anh em bè bạn đã thật sự thân thiết với nhau, nếu chưa thật sự yêu thương nhau. Đến ngay như vợ chồng đầu gối tay ấp, cũng không thiếu những trường hợp “đồng sàng, dị mộng” (chung giường, khác mộng), huống hồ. Chính Đức Giê-su cũng nói : "Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình và trong gia đình mình mà thôi." (Mt 13, 57 ), “Kẻ thù của mình chính là người nhà.” (Mt 10, 36).

 

Đức Ki-tô rất hay dùng cách nói mà ngày nay thường coi là biện pháp nghệ thuật đắc dụng, đó là biện pháp “tương phản” (nói trái với ý chính để làm nổi bật ý chính – vd : "Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà.” – Mt 10, 34-36) ; hoặc “ám tỉ” (so sánh ngầm, vd: "Nước Trời cũng giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men." – Mt 12, 33) ; hoặc “ẩn dụ” (ví ngầm, vd : "Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Tuy nó là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất; nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được." – Mt 13, 31-32).

 

Và trong dụ ngôn “Người Sa-ma-ri tốt lành” cũng vậy, Đức Ki-tô đã dùng biện pháp “tương phản”: Sự gần gũi (thân cận), nếu xét theo quan niệm "tĩnh", thì thầy Tư tế và thầy Lê-vi là người đồng hương (cùng ở Giê-ru-sa-lem) và đồng đạo (Do-thái giáo) với người bị nạn, hẳn nhiên phải gần gũi hơn người Sa-ma-ri (là một dân ngoại) chỉ tình cờ đi ngang qua chỗ người bị nạn. Gần gũi như vậy nhưng thấy người bị nạn "nửa sống nửa chết" thì "lánh qua một bên mà đi". Còn người xa lạ Sa-ma-ri thoạt trông thấy đã "chạnh lòng thương" và ở lại hết lòng cứu chữa người bị nạn. Vậy thì phải hiểu như thế nào về từ "thân cận"? Rõ ràng ở đây phải hiểu theo quan niệm "động": nghĩa là thân cận hay không thân cận là do cách đối xử yêu thương hay không yêu thương đối với nhau. Tình yêu làm con người trở nên gần gũi nhau, còn sự thờ ơ, lãnh đạm tạo nên khoảng cách là điều tất yếu vậy.

 

Cũng chính vì người đời quan niệm chỉ có cha mẹ, anh em, họ hàng mới là người thân cận, nên Đức Giê-su Ki-tô mới dạy: "Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?" Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói: "Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi." (Mt 12, 48-50). Thi hành ý muốn của Chúa Cha là ý muốn gì? Không cần hỏi thì cũng đã sẵn câu trả lời: Đó là ý muốn "Đem Tin Mừng Cứu  Độ đến cho mọi người – nhất là những người nghèo khó, bệnh tật, tù tội... – bằng tình yêu, như Thiên Chúa Tình Yêu đã thực hiện cho nhân loại, thông qua chính Con Một của Người là Đức Giê-su Ki-tô." Người Sa-ma-ri trong dụ ngôn tuy không thông luật, nhưng đã "làm theo ý muốn của Chúa Cha, Đấng ngự trên trời" vậy. Và người thông luật cuối cùng cũng đã thông hiểu vấn đề, nên Đức Ki-tô liền bảo ông ta: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy" (Lc 10, 37).

 

Lời Đức Giê-su nói với người thông luật cũng tương tự như lệnh truyền cho bảy mươi hai môn đệ đi rao giảng: “Anh em hãy ra đi” (Lc 10, 3). Chính ở điểm này cho thấy câu chuyện người thông luật cùng với dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành có liên hệ với việc các môn đệ được Đức Giê-su sai đi rao giảng Tin Mừng. Người bảo người thông luật hãy ra đi và làm như người Sa-ma-ri (yêu thuơng tất cả mọi người, coi họ như người thân cận của mình). Khi sai các môn đệ đi rao giảng, Người cũng truyền: “Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en. Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy.” (Mt 10, 6-8).

 

Người Ki-tô hữu chính là những môn đệ đã hơn một lần được Thầy Chí Thánh Giê-su truyền: “Anh em hãy ra đi và cũng hãy làm như vậy”. Khi được sai đi như thế, điều tiên quyết là phải từ bỏ chính mình và coi tất cả mọi người trên khắp năm châu bốn biển đều là người thân cận như anh em trong một gia đình (“tứ hải giai huynh đệ”). Một cách cụ thể: "Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa... Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa: vui với người vui, khóc với người khóc... Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hoà thuận với mọi người." (Rm 12, 9-18).

 

Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô I vừa ban hành Thông điệp đầu tiên “ÁNH SÁNG ĐỨC TIN – LUMEN FIDEI”, trong đó có câu: “Ki-tô hữu có thể nhìn bằng con mắt của Chúa Giê-su và chia sẻ tâm trí của Người, thiên hướng con thảo của Người, vì họ chia sẻ tình yêu của Người, vốn là Thần Khí của Người” (số 21). Vâng, hãy nhìn bằng “con mắt của Chúa Giê-su” – Con-Mắt-Tình-Yêu – như trong dụ ngôn “Người Sa-ma-ri tốt lành”, mọi việc sẽ sáng tỏ. Đúng vậy, “Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 8). Ấy cũng bởi vì “Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình.” (1Ga 4, 20-21). Ước được như vậy. Amen.

 

JM. Lam Thy ĐVD.