Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Cao vời khôn ví

Tác giả: 
JM. Lam Thy ĐVD.

 

 

CAO VỜI KHÔN VÍ  (CN XXIV/TN-C)

 

Đoạn văn mở đầu bài Tin Mừng hôm nay (CN XXIV/TN-C – Lc 15, 1-32) có nêu nhận định của đám người Pha-ri-sêu và các kinh sư về Đức Giê-su Ki-tô: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Trước đó, cũng đám kinh sư thuộc nhóm Pha-ri-sêu thắc mắc như vậy và đã được Đức Giê-su trả lời thẳng: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn." (Lc 5, 31-32). Biết quá rõ về đám người này chỉ chuyên đi “nhìn người” để săm soi, xét nét, rồi kết án nọ kia; nên lần này Đức Giê-su không trả lời thẳng vào thắc mắc của họ, mà kể cho họ nghe 3 dụ ngôn liền: “Con chiên bị mất”, “Đồng bạc bị đánh mất” và “Người cha nhân hậu”.

 

Dụ ngôn thứ nhất nói về con chiên lạc đàn. Đối với chiên cừu thì những con đi hai bên cạnh hoặc ở cuối đàn thường hay bị lạc bầy, lạc đàn. Lý do chiên bị lạc thường chỉ vì đồng cỏ phía trước mặt đã bị những con chiên đi trước ăn trụi, chỉ còn ở hai bên mới có cỏ, vì thế nên mải mê với những bãi cỏ non xanh, quên mất hoặc không nghe được tiếng chủ chăn, lạc xa bầy đàn. Chủ chăn với tấm lòng nhân hậu, thương đàn chiên như con cái, khi kiểm diện nếu thấy có chiên bị lạc, thì dù chỉ có một con trong tổng số cả trăm con, chắc chắn sẽ bằng mọi cách tìm lại con chiên lạc ấy. Và khi tìm được, sẽ vác nó trên vai đem về với sự vui mừng hân hoan khôn tả và mời mọi người đến "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó”. Dụ ngôn kết bằng Lời Đức Giê-su: “Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.” (Lc 15, 4-7).

 

Đến dụ ngôn thứ hai nói về người phụ nữ có 10 đồng quan, đánh mất một đồng, liền thắp đèn, quét nhà, moi móc tìm, và khi tìm được thì mời hàng xóm láng giềng lại để "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất” (Lc 15, 8-10). Thực tế, có thể không có trường hợp tương tự như người phụ nữ trong dụ ngôn. Mất có một đồng quan, tiếc của, tìm cho kỳ được thì có thể; nhưng mời xóm giềng lại chung vui thì hơi quá! Tuy nhiên phải hiểu đây là một dụ ngôn, mà đã nói đến dụ ngôn (ví ngầm) là muốn nói đến cái ngụ ý ẩn trong câu chuyện kể hiện thực. Cụ thể hơn, đó là cách dùng con vật (chiên, cừu), hoặc vật chất (đồ dùng, tiền bạc) để nói về con người. Ca dao hay truyện cổ Việt Nam cũng không thiếu những ngụ ngôn dùng cách này. Đức Ki-tô đã kết lụân dụ ngôn này rất rõ ràng: “Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối."

 

Cuối cùng, dụ ngôn thứ ba (Lc 15, 11-32) kể lại chuỵên một người có hai đứa con trai. Khi được chia gia tài thì người con thứ hai đã chứng tỏ mình là một “phá gia chi tử” (người con phá nhà) bằng cách “thu góp tất cả (phần tài sản được chia) rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình”. Khi đã nhẵn túi, anh ta mới “Bừng con mắt dậy, thấy mình tay không” (Nguyễn Gia Thiều), đến cám heo cũng không có mà ăn, liền hồi tâm và “Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chay ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa.” (Lc 15, 20-21). Chính nhờ vậy mà anh được người cha vui mừng đón tiếp rất nồng hậu ("Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!”).

 

 Một đứa con hoang đàng tội lỗi biết ăn năn hối cải trở về với gia đình hoặc một con chiên lạc mất mà tìm lại được, mở tịêc mời bà con lối xóm đến chung vui thì còn có thể hiểu được, nhưng đến như mất một đồng quan mà tìm lại được cũng mời hàng xóm tới chung vui thì… kỳ quá! Thực tế có thể không có chuyện đó, nhưng đây là một dụ ngôn nên những hành động biểu hiện bên ngoài chỉ là một cách diễn tả ngụ ý bên trong. Và ẩn ý trong cả ba dụ ngôn đó chính là: “giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 15, 10). Con chiên hay đồng bạc chỉ là một hình ảnh ẩn dụ về một người lầm lạc, sa vòng tội lỗi (như người con hoang đàng). Và mục đích chính của dụ ngôn nhắm tới chính là biểu hiện tấm lòng bao dung độ lượng đầy tính nhân đạo của chủ đàn chiên, người chủ đồng tiền hay người cha nhân hậu của đứa con hoang đàng.

 

Như vậy là đã rõ: con chiên lạc, đồng tiền bị mất hay đứa con hoang đàng cũng chỉ là hình ảnh phản ánh trong muôn một bản tính con người trần thế. Kể từ khi Nguyên tổ loài người sa vòng tội lỗi, bị tội lỗi thống trị, đã kéo theo hệ luỵ cho con cháu đến muôn đời muôn kiếp, để tội lỗi trở nên như một bản tính cố hữu. Nói đến tội lỗi là nói đến bản chất con người. Là con người thì không ai là không có những thiếu sót, lỗi lầm, “nhân vô thập toàn” là điều hiển nhiên. Vấn đề đặt ra là bản thân có nhìn ra được những sai lầm tội lỗi hay không, và khi đã nhận ra những thiếu sót lầm lỗi, thì có biết ăn năn hối cải hay không.

 

Đối với chủ con chiên bị lạc, chủ đồng tiền bị mất hay người cha của đứa con hoang đàng, thì luôn luôn và mãi mãi vẫn rất vui mừng khi tìm lại được con chiên, tìm thấy đồng bạc hoặc đứa con biết ăn năn sám hối trở về. Người chủ, người cha ấy đối với những cảnh “đã lạc, đã mất nay lại tim thấy, đã chết nay lại sống” luôn tỏ ra bao dung độ lượng với tấm lòng nhân hậu vô bờ bến. Đó chỉ có thể là Thiên Chúa với Tình Yêu vô lương dành cho con người. Một minh hoạ sống động cho cảnh “người con đã chết nay lại sống”, là chính tác giả bài đọc 2 trong Thánh lễ CN hôm nay: Thánh Phao-lô với biến cố Đa-mat (Cv 9, 1-19).

 

Thánh Phao-lô trong Thư gửi tín hũu Ti-mô-thê đã bày tỏ rõ ràng sự vui mừng mà Đức Giê-su Thiên Chúa ban cho ngài. Thánh nhân chân thành cảm tạ Thiên Chúa, vì ngài đã được đón nhận cách lạ lùng lòng thương xót của Chúa. Nếu Thiên Chúa không thương xót thánh nhân, thì Phao-lô suốt đời chỉ là Sao-lô, một biệt phái rất thông thái nhưng đã tiêm nhiễm giáo lý sai lạc của Do-thái giáo, sống với não trạng và thái độ kỳ thị, chỉ có mình và “phe ta” là đáng được hưởng ân huệ của Thiên Chúa, còn những kẻ khác (thuộc nhóm “theo Ki-tô”) thì không xứng đáng và cần diệt đi. Sao-lô đã là một con chiên không những lạc bầy mà còn a dua theo sói dữ quay lại mưu toan hãm hại chủ chiên và cả đàn chiên (lùng bắt Ki-tô, sát hại những người theo Ki-tô).

 

Rõ ràng não trạng tôn giáo của biệt phái, của Sao-lô đã sai lầm về Chúa, sinh ra sai lỗi về đồng bào, kỳ thị người khác và hết coi họ là anh em. Lòng Thương xót của Chúa không vì thế mà bị suy giảm, trái lại càng tăng trưởng mãnh liệt, vì “ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5, 20). Và với biến cố Đa-mát, Đức Giê-su Thiên Chúa đã làm cho một kẻ đã chết là Sao-lô được sống lại thành Phao-lô Tông đồ kiệt xuất. Thánh nhân khẳng định chắc nịch: “Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Ki-tô Giê-su đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi. Sở dĩ tôi được thương xót, là vì Đức Giê-su Ki-tô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống muôn đời.” (1Tm 1, 15-16).

 

Người Ki-tô hữu hôm nay rất cần thiết nhìn lại mình xem có phải mình cũng cách nào đó giống Sao-lô hoặc những biệt phái, Pha-ri-sêu… với cái não trạng hẹp hòi ích kỷ, chỉ biết “săm soi người” mà không biết “xét tật mình”. Từ đó, sám hối để trở về cùng Người Cha Nhân Lành, cũng tức là thể hiện tinh thần hoà giải với Thiên Chúa và với anh em. Muốn đạt được hiệu quả tốt thì phải biết đổi mới tận gốc rễ con người của minh, mà muốn đổi mới thì phải biết nhìn lại mình để thấy được những sai lầm tội lỗi và quyết tâm thống hối. Hãy cầu nguỵên xin cho được cùng chết đi với Đức Ki-tô để được cùng sống lại với Người. Hãy cùng với Thánh Phao-lô dâng lời tôn vinh: “Kính dâng Vua muôn thuở là Thiên Chúa bất diệt, vô hình và duy nhất, kính dâng Người danh dự và vinh quang đến muôn thuở muôn đời. A-men.” (1Tm 1, 17).

 

Ôi! Lạy Chúa! “Cao vời khôn ví, tình yêu của Chúa cao vời khôn ví, tình yêu của Người, con lấy gì, Chúa ơi, đền đáp cho cân, Chúa ơi, con lấy gì đền đáp cho cân (là đền đáp cho cân). TK: Thương con thủa rất xa vời (là vời), từ khi chưa chưa có (í-a) mặt trời, (trăng) mặt trăng. Khi chưa tạo tác (í-a) gian trần, người luôn ấp ủ (í-a) một niềm, một niềm son sắt son.” (TCCĐ “Cao vời khôn ví”). Ôi! Lạy Chúa con! Lạy Thiên Chúa của con. Amen.

 

JM. Lam Thy ĐVD.