Nguồn ân sủng bất tận
NGUỒN ÂN SỦNG BẤT TẬN
Kỷ niệm 25 năm (1988 – 2013) Lễ
“TÔN VINH HIỂN THÁNH 117 CHÂN PHƯỚC TỬ VÌ ĐẠO VIỆT NAM”
Tháng 11 hàng năm là dịp người Ki-tô hữu thể hiện tinh thần hiệp thông trong mầu nhiệm hiệp thông Thiên Chúa Ba Ngôi tuôn tràn qua 3 Giáo Hội: GH Lữ Hành, GH Thanh Luyện và GH Khải Hoàn. Vì thế, giáo dân Việt Nam thường gọi vắn tắt là tháng Cầu Hồn. Cầu cho các đẳng linh hồn còn đang chịu thanh luyện trong Luyện Ngục cũng chính là cầu cho bản thân người Ki-tô hữu có đủ sức chiến đấu chống lại ba thù (GH Lữ Hành còn được gọi là GH Chiến Đấu), bởi khi các đẳng linh hồn đã vượt qua được thời gian thanh luyện (GH Đau Khổ), vui hưởng thành quả trên Thiên Quốc (GH Chiến Thắng); thì chính các ngài sẽ cầu bầu cùng Thiên Chúa cho GH Lữ Hành. Tháng 11 năm nay (2013) còn là dịp Giáo Hội Việt Nam mừng kỷ niệm 25 năm Lễ “TÔN VINH HIỂN THÁNH 117 CHÂN PHƯỚC TỬ VÌ ĐẠO VIỆT NAM”. Xin có đôi lời chia sẻ.
Đọc thư của Thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma (bài đọc 2 lễ kính Các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam” – Rm 8, 31b-39), thấy có đoạn: “Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta”. Nếu đem áp dụng vào lịch sử truyền giáo tại Việt Nam thì thấy rất phù hợp. Thật thế, tuy Việt Nam được tiếp cận Tin Mừng Cứu Độ hơi muộn, nhưng ngay từ khi hạt giống đức tin đầu tiên được gieo trên mảnh đất hình cong chữ S này, đã thấy rõ ràng “không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta”, dù cho đó có là những thế lực phong kiến đầy đủ uy quyền với những cách bách hại đạo khủng khiếp.
Sự thật hiển nhiên là chỉ trong ba thế kỷ, trên 130.000 Ki-tô hữu Việt Nam đã gắn liền cuộc đời minh với cây Thập Tự, hoà trộn máu của mình với Máu Đức Giê-su Ki-tô nhuần thắm cánh đồng truyền giáo Việt Nam. Trong số 130.000 anh hùng tử vì đạo ấy, Giáo Hội đã tuyên phong 117 vị lên bậc hiển thánh. Trên 130.000 chứng nhân Tin Mừng anh dũng tuyên xưng đức tin vào cây “Thập giá Chúa Ki-tô”! Thật là một con số kỷ lục đối với một đất nước nhỏ bé và tiếp cận với Ki-tô giáo hơi muộn. Muộn, nhưng vững vàng – muộn, nhưng khởi sắc – muộn, nhưng tốt đẹp – “Muộn thì muộn, muộn thì càng chắc. Khó thì khó, khó chẳng lụy ai” (ca dao VN). Há chẳng phải đó là một niềm vinh dự, một niềm tự hào cho quê hương đất nước Việt Nam thân yêu sao? Quả thật “không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta”, đúng như lời Thánh Tử Vì Đạo Tê-ô-pha-nô Ven nói với bọn quan quyền bách hại Đạo Chúa: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về Đạo Thập Giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quý hoá đến độ tôi phải bỏ Đạo mà mua?” (Điệp ca Ca vịnh 3, Kinh Chiều II, Lễ kính CTTĐ/VN).
Hơn ai hết, các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam đã thấm nhuần Lời dạy của Đấng khai mở Đạo Thập Giá: “Phúc cho ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.” (Mt 1, 10-13). Vì thế, mở đầu bài giảng trong đại lễ “Tôn vinh Hiển thánh 117 vị Chân Phước Tử Vì Đạo Việt Nam” tại Rô-ma ngày 19/5/1988, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II phát biểu: “Lên tiếng với anh em để hô vang Chúa Ki-tô Tử nạn Thập Giá, tất cả chúng tôi hôm nay để lời cám ơn anh em vì tấm gương nhân chứng đặc biệt các vị thánh Tử Vì Đạo của Giáo Hội Việt Nam anh em đã nêu cao, bất cứ các ngài là con dân Việt Nam hay là những Thừa sai, xuất xứ từ những nước đã in sâu mầm mống đức tin Chúa Ki-tô. Làm sao kể lại cho hết? Tất cả là 117 vị Tử Vì Đạo, trong số có 8 vị Giám mục, 50 vị Linh mục, 59 giáo dân, trong số đó có một phụ nữ là thánh A-nê Lê Thị Thành, mẹ của sáu người con.”
Càng suy niệm, càng thấy lời dậy của Thánh Phê-rô là xác thực: “Anh em thân mến, anh em đang bị lửa thử thách: đừng ngạc nhiên mà coi đó như một cái gì khác thường xảy đến cho anh em. Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ. Nếu bị sỉ nhục vì danh Đức Ki-tô, anh em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em” (1Pr 4, 12-14). Các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam đã “thật có phúc”, vì “cùng được vui mừng hoan hỷ” khi “vinh quang của Đức Ki-tô tỏ hiện”.
Tổ tiên chúng ta đã anh hùng làm chứng cho Tin Mừng, làm chứng cho Chân Lý, đem Công Lý gieo mầm tin yêu trên dải đất chữ S thân yêu này. Điều đó, một lần nữa cho thấy chân lý: Máu các Thánh Tử Vì Đạo là nguồn ân sủng chan chứa tưới trên đất nước Việt Nam, làm cho cánh đồng truyền giáo ngày càng thêm màu mỡ, trổ sinh biết bao hạt giống đức tin đơm bông kết trái rực rỡ như ngày nay. Điều này khẳng định nguồn ân sủng vô tận đó chính là để dành cho con cháu các Thánh Tử Vì Đạo trước tiên, để con cháu ngày càng thăng tiến trong đức tin. Đức tin của tổ tiên vẫn mãi tồn tại và còn tiếp tục truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai. Đức tin này chính là nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ trung thành với quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn là người tín hữu đích thực của Chúa Ki-tô (công dân nước trần thế + công dân Nước Trời).
Không chỉ ở những chế độ phong kiến hà khắc, mà ngay cả ngày nay cũng vẫn còn những luồng dư luận cho rằng các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam đã theo đạo của đế quốc chống lại triều đình, làm hại cho đất nước mình (cõng rắn cắn gà nhà). Nhưng nhìn thẳng vào thực tế, sẽ thấy rằng đó hoàn toàn là một nguỵ thuyết được tô vẽ để che đậy cho ý đồ “tẩy chay Ki-tô Giáo”. Thánh Lu-ca Vũ Bá Loan – linh mục tử đao, đã trả lời thẳng quan quyền: "Tôi chẳng theo đạo của nước nào cả, tôi chỉ thờ Chúa Trời Đất, Chúa của muôn dân thôi". Các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam có chống lại chính quyền hay không? Hoàn toàn không! Không một Giáo sĩ hay giáo dân Tử Vì Đạo nào dùng vũ khí, vũ lực trần thế để chiến đấu, mà ngược lại các ngài chấp nhận để chính quyền giết hại, chỉ vì các ngài thấy rõ được chân lý cứu độ của Đức Giê-su Ki-tô không nhằm vào cuộc sống tạm bợ trần gian, mà là nhắm đến sự sống vĩnh cửu mai sau.
Chính Thánh Tô-ma Khuông – linh mục tử đạo – đã thẳng thắn trả lời cho các quan quyền chụp lên đầu các ngài cái mũ “chống triều đình”, bằng câu nói bất hủ: "Đạo Gia-tô không những cấm tín hữu chống lại triều đình, mà còn khuyến khích để họ cầu nguyện và góp phần giúp quê hương an ninh thịnh vượng". Một cách cụ thể, gương chứng nhân của các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam luôn minh họa một chân lý: Công ích của quốc gia vẫn là xuất phát điểm để người công dân phải dấn thân, nhưng đồng thời phải được tự do tuyên xưng đức tin của mình vào một Thiên Chúa Tình Yêu. Và như thế là để sống an bình hoà giải với mọi người và thực tâm xây dựng hạnh phúc cho toàn dân. Thật đúng như lời dạy của Thánh Phê-rô: “tuân phục mọi thể chế do loài người đặt ra, hành động như những người tự do, không phải như những người lấy tự do làm màn che sự gian ác, nhưng như những tôi tớ của Thiên Chúa, tôn trọng mọi người, yêu thương anh em, kính sợ Thiên Chúa, tôn trọng nhà vua” (1Pr 2, 13-17).
Quả thật các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam chính là những người công chính được nói tới trong sách Khôn Ngoan từ Cựu Ước: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa. Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi; khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng tưởng là họ bị tiêu diệt, nhưng thực ra, họ đang hưởng an bình. Người đời nghĩ rằng họ đã bị trừng phạt, nhưng họ vẫn chứa chan hy vọng được trường sinh bất tử. Sau khi chịu sửa dạy đôi chút, họ sẽ được hưởng ân huệ lớn lao. Quả thế, Thiên Chúa đã thử thách họ và thấy họ xứng đáng với Người. Người đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng trong lò lửa, và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu. Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy. Họ sẽ xét xử muôn dân, và thống trị muôn nước. Và Đức Chúa sẽ là Vua của họ đến muôn đời.” (Kn 3, 1-8).
Người Ki-tô hữu ngày hôm nay hãy sống như Thánh Si-mon Phan Đắc Hòa: "Dầu tôi phải mất vợ mất con, mất hết của cải và mạng sống nữa, tôi cũng không bao giờ bỏ Chúa tôi thờ". Hãy học theo lời Thánh Phao-lô Tịnh nhắn nhủ các chủng sinh ở Kẻ Vĩnh: “Những cực hình này thường làm cho người khác buồn sầu, nhưng nhờ ơn Chúa giúp, tôi vẫn đầy vui sướng hân hoan, bởi vì tôi không chỉ có một mình, nhưng có Đức Ki-tô ở cùng tôi. Người mang tất cả sức nặng thập giá, chỉ để cho tôi đỡ phần nhẹ nhất”. Ngài còn thưa với quan án: “Thân xác tôi ở trong tay quan, quan muốn làm khổ thế nào tùy ý. Nhưng linh hồn là của Chúa, không có gì khiến tôi hy sinh nó được”. Một cách cụ thể, để có thể chiến thắng được kẻ thù hiểm ác, thì xin “hãy đứng vững: lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, chân đi giày là lòng hăng say loan báo tin mừng bình an; hãy luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó anh em sẽ có thể dập tắt mọi tên lửa của ác thần. Sau cùng, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa.” (Ep 6, 14-17).
Mà muốn được như vậy, thì đừng quên học theo các Thánh Tử vì đạo Việt Nam, với lòng tôn sùng Đức Maria cách đặc biệt. Lòng tôn kính đó thể hiện qua các thứ bảy đầu tháng, với những cuộc rước long trọng, qua tháng Hoa và tháng Mân Côi mỗi năm, đặc biệt qua việc siêng năng lần chuỗi Mân Côi hằng ngày. Nhiều người đọc kinh trên đường đi và lấy hạt chuỗi Mân Côi làm đơn vị tính đường dài. Tiêu biểu như Thánh Phi-lip-phê Phan Văn Minh (linh mục tử đạo) khi bị điệu ra pháp trường vẫn mặc áo dài, cầm tràng hạt trong tay vừa đi vừa lần chuỗi và trước khi bị xử tử, đã cầu nguyện lớn tiếng: “Lạy Mẹ, xin cầu cho con trong giờ lâm chung nguy hiểm này. Lạy Chúa xin thương đến con cùng. Xin Chúa ban cho con mạnh sức chịu cho sáng danh Chúa”.
Trong giai đoạn cực kỳ gian khổ vì sự bách hại Đạo Chúa, các Thánh Tử vì đạo Việt Nam nhờ lòng cậy trông tuyệt đối vào Đức Giê-su Ki-tô Con Thiên Chúa và cũng là Con của Mẹ, nên Đức Mẹ đã đoái thương và hiện ra an ủi tại rừng La-Vang (Quảng Trị) năm 1798. Điều đó chứng tỏ Mẹ vẫn luôn hiện diện để nâng đỡ khích lệ con cái mình trong những lúc khó khăn nhất. Thật là một niềm an ủi lớn cho Giáo Hội Việt Nam vậy. Và vì thế, cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội Việt Nam luôn luôn và mãi mãi là một minh chứng sống động nhất cho chân lý bất biến: “người ta càng hành hạ áp bức dân Chúa, thì dân Chúa càng thêm đông đúc và lan tràn, khiến thiên hạ phải khiếp sợ” (Xh 1, 12).
Ôi! “Lạy Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, là con thảo của Cha trên trời, là chứng nhân anh dũng của Đức Kitô, là thành phần trung kiên của Hội Thánh, xin giúp chúng con biết trân trọng di sản đức tin mà các ngài đã truyền lại cho chúng con bằng máu và nước mắt. Xin cho chúng con mạnh dạn sống đức tin trong gia đình cũng như xã hội, theo tấm gương xán lạn của Thánh Gia Thất, để chiếu toả ánh sáng đức tin khắp nơi nơi; nhờ đó chúng con có thể tích cực góp phần thi hành sứ mệnh truyền giáo, đem lại hoa quả dồi dào trên quê hương Việt Nam thân yêu.” (HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM – Thư Chung gửi Cộng đồng Dân Chúa – 10/10/2013)
JM. Lam Thy ĐVD.
- Loại bài viết:
- Thể loại khác:
- Chia sẻ Lời Chúa: