Nhân danh chân lý tình yêu
NHÂN DANH CHÂN LÝ TÌNH YÊU (CN XI/TN-A – LỄ CHÚA BA NGÔI)
Trong Thánh lễ hàng ngày tái hiện hy tế Thập Giá Chúa Ki-tô trên bàn thờ, với nghi thức mở đầu, vị chủ tế làm dấu thánh nhân danh Chúa Ba Ngôi (“Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”). Tiếp theo là lời cầu chúc cộng đoàn Dân Chúa tham dự Thánh lễ: “Nguyện xin ân sủng Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh (chị) em.” Đây chính là lời chúc cuối Thư thứ 2 của Thánh Phao-lô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô (xc bài đọc 2 – 2Cr 13, 11-13). Cuối Thánh lễ, thì vị chủ tế lại xin Thiên Chúa Ba Ngôi ban phép lành cho cộng đoàn tín hữu: “Xin Thiên Chúa toàn năng, là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần ban phép lành cho anh chị em”. Sự kiện này mang ý nghĩa gì?
Đó chính là lời tuyên tín của Giáo Hội về đức tin trong sứ vụ độc nhất vô nhị của mình: sống chứng tá Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh. Lời tuyên tín đó khởi đi từ mạc khải về mầu nhiệm Ba Ngôi, là một mạc khải đặc biệt và cũng là cốt lõi của sứ mạng cứu độ: Có Một Thiên Chúa duy nhất và Người có Ba Ngôi: Ngôi thứ Nhất là Cha, Ngôi thứ Hai là Con, Ngôi thứ Ba là Thánh Thần. Trong số các mầu nhiệm đức tin thì “Một Chúa Ba Ngôi” là mầu nhiệm quan trọng nhất và là nền tảng của các mầu nhiệm khác. Vì là lời tuyên tín nên tất nhiên “Ai tin thì sẽ được cứu độ” (Mc 16, 16). Đã là mầu nhiệm thì đương nhiên người ta khó lòng thấu hiểu được. Tuy nhiên, nếu biết xin ơn Thánh Thần soi sáng, và cố gắng tìm tòi học hỏi, thì người ta cũng có thể lãnh hội được phần nào ý nghĩa, và sẽ không thấy có gì đối nghịch giữa khoa học và đức tin tôn giáo.
Trước hết, để cảm nghiệm được mầu nhiệm cao vời khôn ví này, người tín hữu cần trở về với căn bản giáo lý của Hội Thánh: “Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Ki-tô hữu. Ðây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa, cội nguồn phát sinh mọi mầu nhiệm khác của đức tin và là ánh sáng chiếu soi các mầu nhiệm ấy. Ðây là giáo huấn căn bản nhất và trọng yếu nhất theo "phẩm trật các chân lý đức tin" (DCG 43). "Trọn lịch sử cứu độ chỉ là lịch sử về đường lối và các phương tiện mà Thiên Chúa chân thật và duy nhất là Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dùng để tự mạc khải, để giao hòa và kết hợp với Người những ai từ bỏ tội lỗi" (DCG 47)”. (Giáo Lý HTCG, số 234).
Dựa vào Lời Chúa Giê-su mạc khải trong Tân Ước, Hội Thánh đã rút ra chân lý mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi: “Chỉ có Một Thiên Chúa và “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4, 7), nhưng Người lại có Ba Ngôi: Ngôi thứ Nhất là Cha, Ngôi thứ Hai là Con, Ngôi thứ Ba là Thánh Thần (Mt 3, 16-17; 28, 19). Vì Ba Ngôi cùng trong một nhiệm thể (ở trong nhau – đồng bản thể), cùng chung một bản tính, cùng một quyền năng, nên trong Ba Ngôi, không Ngôi nào lớn hơn (Ga 14, 10-12). Vai trò của mỗi Ngôi như sau:
† Ngôi Thứ Nhất: Chúa Cha – Đấng Sáng Tạo muôn loài: Khi sáng tạo vũ trụ, vạn vật và loài người. Thiên Chúa xuất hiện là Ngôi Thứ Nhất như một người Cha. Người dùng Lời quyền năng (Ngôi Hai) làm cho vạn vật xuất hiện từ cõi hư không (St 1, 3), và tiếp tục quan phòng gìn giữ để các tạo vật ấy tồn tại, phát triển và tiến hóa ngày một hoàn thiện hơn. Người cứu độ loài người bằng việc sai Con Một (Ngôi Thứ Hai) nhập thể cứu chuộc và ban Thánh Thần (Ngôi Thứ Ba) tiếp tục chương trình cứu độ loài người qua Hội Thánh.
† Ngôi Thứ Hai: Chúa Con – Đấng Cứu Chuộc nhân loại: Khi tới giờ đã định, Chúa Cha (NgôiThứ Nhất) sai Con Một là Chúa Con (Ngôi Thứ Hai) xuống thế làm người là Đức Giê-su Ki-tô (Ga 3, 16). Người thi hành sứ mệnh Thiên Sai (từ Ngôi Cha) bằng việc đi khắp nơi công bố Tin Mừng Nước Trời, làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế, và cuối cùng tình nguyện chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho loài người và sống lại để ban ơn cứu độ loài người cho khỏi sự chết đời đời. Đức Giê-su chính là “Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16), điều này đã được chính Chúa Cha mạc khải: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người." (Mt 3, 17). Người là phản ảnh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa (Dt 1, 3). Ai thấy Người là thấy Chúa Cha (Ga 14, 9). Người luôn hiệp nhất với Chúa Cha (Ga 17, 22).
† Ngôi Thứ Ba: Chúa Thánh Thần – Đấng Thánh Hóa mọi sự: Thánh Thần tuôn đổ thần khí ân sủng xuống trên các Tông đồ trong lễ Ngũ Tuần, Người ban ơn soi sáng giúp lương dân gia nhập Hội Thánh (Nhiệm Thể Đức Ki-tô), đồng thời tiếp tục bảo trợ Giáo Hội chu toàn ba chức vụ của Chúa Giê-su, cũng là ba sứ vụ của Giáo Hội, của mỗi Ki-tô hữu: *1- Làm Ngôn sứ (sứ giả được sai đi rao giảng về Lời, tức loan báo Tin Mừng); *2- Làm Tư tế (dâng hiến bản thân làm của tế lễ Thiên Chúa) nhằm thánh hóa bản thân mỗi Ki-tô hữu nhờ các phép bí tích do Chúa Giê-su thiết lập; *3- Làm Vương giả (làm vua bản thân, tức là làm chủ bản thân, “thống trị mặt đất và làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất.” – St 1, 28), để đi tới phục vụ đoàn chiên cộng đồng (theo gương Đức Vua Phục Vụ Giê-su Ki-tô). Để thưc thi và hoàn tất sứ vụ này, người tín hữu phải tuyệt đối trông cậy vào Đấng Bảo Trợ Hội Thánh. Đấng ấy chính là Thiên Chúa Ngôi Ba, là Thánh Thần, Thánh Linh hay Thần Khí, Thần Chân Lý.
Vì Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm, nên con người không thể dùng trí khôn bất toàn của mình mà “suy sự Đức Chúa Trời” giống như Thánh Au-gus-ti-nô đã từng làm và đã được Thiên Chúa sai sứ thần trong vai một em bé nhắc nhở (*). Tuy nhiên, căn cứ vào ân sủng cứu độ được thực hiện bởi Ngôi Hai Thiên Chúa, Giáo Hội đã đi đến khẳng định chiều hướng mạc khải: “Chúa Cha được mạc khải qua Chúa Con; Chúa Cha và Chúa Con được mạc khải nhờ Chúa Thánh Thần” (GL/HTCG, số 238-248). Thực thế, loài người – thông qua các thánh Tông đồ và dân tộc Ít-ra-en cách đây trên 2000 năm – đã được thực mục sở thị (trông thấy nhãn tiền), được gặp gỡ trò chuyện, ăn cùng mâm, ngồi chung chỗ với một trong Ba Ngôi là Ngôi Hai Thiên Chúa, một con người với bản tính người-rất-người, người 100% (không kể bản tính Thiên Chúa). Chính Con Người ấy trong mọi sinh hoạt trên đời này đều luôn minh chứng cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều tồn tại trong Ngôi Lời Nhập Thể:
Khi chịu Phép Rửa tại sông Gio-đan (“và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” – Lc 3, 22); khi ăn uống và cả những khi cầu nguyện thì luôn dâng lời chúc tụng tôn vinh Chúa Cha trên trời (“Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” – Ga 12, 28). Đặc biệt hơn cả là khi dạy dỗ, trò chuyện, giao tiếp với các môn đệ, với mọi người, “Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." (Ga 20, 21-23); “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?" (Lc 11, 13); “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14, 9); "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em."(Mt 28, 18-19)…
Nhiều lắm những dẫn chứng rất sinh động và thật cụ thể để minh họa, do chính các Thánh sử, các Thánh Tông đồ – những con người đã sống liền bên, ăn cùng mâm, ngồi chung chỗ, cùng trò chuyện, được dạy bảo, nhất là “đã nghe, đã thấy tận mắt, đã chiêm ngưỡng, đã chạm đến” Ngôi Hai Thiên Chúa (1Ga, 1) – ghi lại trong Thánh Kinh. Rõ ràng là cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều cùng tồn tại trong Ngôi Hai, một con người đã được tượng thai bằng xương bằng thịt và sinh hạ bởi một người phụ nữ như tất cả những con người hiện diện trên trái đất này, cách đây hơn 2000 năm. Từ đó suy ra trong Ngôi Cha cũng có Ngôi Hai và Ngôi Ba, trong Ngôi Ba cũng tồn tại Ngôi Cha và Ngôi Con. Cả 3 Ngôi đều có ở trong nhau, tồn tại trong nhau, vì thế Ba Ngôi vẫn chỉ là một Thiên Chúa duy nhất, thánh thiện.
Nói 3 Ngôi ở trong nhau như một thân thể duy nhất, phải chăng là nói đến sự thông hiệp giữa Thiên Chúa Ba Ngôi, và từ cội nguồn mầu nhiệm đó, dòng suối hiệp thông tuôn tràn trên Giáo Hội phổ quát? (“Sự thông hiệp này, chính là mầu nhiệm của Giáo Hội như Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã dùng những lời của Thánh Cy-pri-a-nô để nhắc lại: "Giáo Hội phố quát xuất hiện như một dân tộc được hợp nhất nhờ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánk Thần". Mầu nhiệm Giáo Hội hiệp thông này được nhắc nhở ở mỗi đầu Thánh Lễ khi vị chủ tế đón mời chúng ta bằng lời chào của Thánh Phao-lô Tông Đồ: ‘Nguyện xin ân sủng Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta, và tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em’ (2Cr. 13, 13)” – T/H “Ki-tô hữu Giáo dân”, số 18).
Và chính sự sống hiệp thông của Giáo Hội đã trở nên như một dấu chỉ về Ba Ngôi Thiên Chúa cho thế giới, đồng thời là một hấp lực thu hút mọi người tới niềm tin vào Chúa Giê-su Ki-tô qua Lời Người: "Lạy Cha, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, xin cho họ trở thành một trong chúng ta để thế gian tin rằng Cha đã sai Con" (Ga 17, 21). Dấu chỉ ấy, sự thu hút ấy phải chăng là công cuộc truyền giáo, là sứ vụ loan báo Tin Mừng, như lời khẳng định của Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II: “Như thế sự hiệp thông hướng về truyền giáo và chính sự hiệp thông là truyền giáo” (T/H “Ki-tô hữu Giáo dân”, số 18).
Trên thế giới có nhiều hình ảnh cụ thể minh họa cho vấn đề tuyên tín (công bố niềm tin bằng lời thề) như một y bác sĩ tuyên thệ khi tốt nghiệp ngành Y khoa: “Nhân danh Đấng Tối Cao mà tôi tin tưởng, nhân danh Y Tổ Hippocrates, tôi xin thề…”; hoặc như một thẩm phán trước khi xét xử một vụ án cũng “Nhân danh công lý, tôi xin tuyên thệ trước tòa…”. Ấy là chưa kể vào những lễ tuyên thệ của các vị nguyên thủ quốc gia sau khi đắc cử, cũng đặt tay lên Hiến Pháp mà thề sẽ tuyệt đối trung thành với Tổ quốc “Nhân danh Quốc Tổ và Hiến Pháp nước…, tôi xin tuyên thệ…”. Người Ki-tô hữu hôm nay cảm nghiệm được mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, thì cũng là lúc ý thức được sứ vụ duy nhất của mình đã được chính Ngôi Hai Thiên Chúa trao phó: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế." (Mt 28, 19-20). Khi nghe Lời truyền dạy “Làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, thì cần phải hiểu mình làm những gì (cho bản thân hay cho tha nhân) cũng đều phải làm vì danh thánh Thiên Chúa Ba Ngôi.
Vậy thì người Ki-tô hữu còn chần chờ gì nữa mà không làm dấu thánh nhân danh Chân Lý Tình Yêu (“Nhân danh Chúa Cha † Chúa Con † và Chúa Thánh Thần † ”) trước khi thi hành sứ vụ “Đi khắp tứ phương loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (dâng Thánh lễ, làm công tác Tông đồ, bác ái), kể cả trong sinh hoạt hàng ngày (trước khi ăn, trước khi ngủ, khi đọc kinh sớm tối, trong mọi công việc…). Ôi! “Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, Chúa đã sai Con Một là Lời chân lý và sai Thánh Thần, Ðấng thánh hoá muôn loài đến trần gian mạc khải cho chúng con biết mầu nhiệm cao vời của Chúa. Xin cho chúng con hằng tuyên xưng đức tin chân thật là nhận biết và tôn thờ một Thiên Chúa Ba Ngôi uy quyền vinh hiển. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Giê-su Ki-tô Con Cha, Chúa chúng Con, Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thủa muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Chúa Ba Ngôi).
JM. Lam Thy ĐVD.
(*) Thánh Au-gus-ti-nô (354-430) – một nhà Thần học và Triết học – muốn hiểu thật tường tận về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Một hôm, thánh nhân đi đi lại lại trên bãi biển, vừa cầu nguyện vừa cố suy nghĩ xem có cách nào để hiểu và cắt nghĩa được tường tận mọi điều về Thiên Chúa Ba Ngôi. Đang đăm chiêu bách bộ, chợt ngài thấy có một em bé trông rất khôi ngô tuấn tú, đang dùng một vỏ sò múc nước biển đổ vào một lỗ nhỏ (hang cua, hang cáy). Ngạc nhiên, Thánh Âu-tinh liền dừng lại hỏi em đang muốn làm gì vậy. Em bé mỉm cười trả lời: “Cháu đang muốn tát cạn nước biển.” Thánh Au-gus-ti-nô phì cười: “Sao cháu làm một việc vô ích như vậy. Làm sao cháu có thể múc nước cả đại dương này để đổ hết được vào cái lỗ nhỏ như thế?” Em bé cũng cười rất tươi nói: “Thì việc cháu đang làm cũng đâu có gì khác với việc bác đang suy nghĩ?” Với sự đáp trả đầy thông minh hóm hỉnh của em nhỏ, Thánh Âu-tinh giật mình hiểu ra Thiên Chúa đã thức tỉnh ngài thông qua cậu bé (thiên sứ) này. Kể từ đó, thánh nhân không dám “suy sự Đức Chúa Trời” theo kiểu triết lý nhân sinh nữa.
- Loại bài viết:
- Thể loại khác:
- Chia sẻ Lời Chúa: