Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Những người được đóng ấn

Tác giả: 
JM. Lam Thy ĐVD.

NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC ĐÓNG ẤN (LỄ CÁC THÁNH)

 

Bài đọc 1 lễ CÁC THÁNH NAM NỮ hôm nay (Kh 7, 2-4.9-14) trình thuật lời Thánh sử Gio-an viết trong sách Khải Huyền: ”Tôi thấy một thiên thần mang ấn của Thiên Chúa hằng sống. Thiên thần ấy đóng ấn trên trán các tôi tớ của Thiên Chúa. Rồi tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn: một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn, thuộc mọi chi tộc con cái Ít-ra-en. Sau đó, tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô: "Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta.” Các thiên thần cũng hợp hoan chúc tụng: "A-men! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta lời chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh, đến muôn thuở muôn đời! A-men!"

 

Đoàn người áo trắng “được đóng ấn” đó chính là những người đã vượt qua được “trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin là thứ quý hơn vàng gấp bội, - vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự.” (1Pr 1, 6-7). Lời khen ngợi đã thể hiện rõ nét bằng ấn tích trên trán và chiếc áo trắng tinh tuyền trên thân thể chiếu tỏa hào quang danh dự. Nói cách cụ thể thì đó là những Ki-tô hữu đã vinh dự được gia nhập Giáo Hội Khải Hoàn trên Thiên Quốc, mà Giáo hội mừng kính trọng thể trong ngày Lễ Các Thánh hôm nay.

 

Lễ Các Thánh đã khởi sự từ thế kỷ IV, nhưng ở thời đó mới chỉ là lễ tưởng niệm các vị tử vì đạo. Bước đầu Lễ này được mừng vào ngày Chúa nhật đầu tiên sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống (ngụ ý: các Tông đồ được sai đi giảng đạo khởi đầu từ Lễ Ngũ Tuần, sau khi hoàn tất sứ vụ thì được vui hưởng thành quả trên Thiên Quốc). Ở Rô-ma, ngày lễ ấy lúc đầu được cử hành vào ngày 13/5 (ngày cung hiến điện Panthéon thành một vương cung thánh đường). Về sau, vì lý do muốn tạo điều kiện thuận tiện cho các khách hành hương ở xa, Giáo Hội đã dời lễ đó vào ngày 01 tháng 11. Và thay vì kính riêng các Thánh Tử Vì Đạo, Giáo Hội mừng chung tất cả các Thánh Nam Nữ (xc “Lịch sử Giáo Hội Công Giáo”).

 

Mừng lễ Các Thánh vào thời điểm cuối năm Phụng Vụ, Giáo Hội muốn nhắc nhở  các Ki-tô hữu đây là thời điểm mừng kết quả hồng ân Cứu Độ (Kế hoạch của Thiên Chúa khởi sự từ Mùa Vọng trải qua một quá trình thực hiện, thì giờ đây là lúc các tín hữu được mời dự Tiệc Cưới Cánh Chung – nơi có sự tham dự của “một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ.” – Kh 7, 9). Đoàn người ấy "Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người; Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn. Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ." (Kh 7, 14-17).

 

Áo của đoàn người ấy đã được “giặt sạch và tẩy trắng trong máu Con Chiên”, chính là vì các ngài đã đi theo Con Đường của Chiên Thiên Chúa Giê-su Ki-tô. Một cách cụ thể là trong cuộc lữ hành trần thế, các ngài đã thấm nhiễm và triệt để sống và hành động theo Lời Toàn Năng, đã kiên trì vượt thắng mọi thử thách nghiệt ngã, kể cả việc sẵn sàng đổ máu mình ra như Máu Con Chiên đã đổ ra trên thập giá, làm lễ vật hy sinh dâng lên Thiên Chúa Cha, đồng thời thanh tẩy cõi trần nhơ uế. Máu Con Chiên đã hoà trộn với máu các ngài, tẩy sach mọi vết nhơ khiến các ngài trở nên trong trắng tinh tuyền và vì thế áo các ngài (phản ánh trung thực chân dung của các ngài) cũng trắng tinh như tuyết, không gợn chút bụi trần.

 

Rõ ràng đoàn người áo trắng là những Ki-tô hữu trong thời cánh chung hồn xác được sống lại vinh hiển như Đức Ki-tô Phục Sinh, đúng như lời thánh sử Gio-an: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.”  (1Ga 3, 2). Đoàn người áo trắng đã “được biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.” (Pl 3, 10-11), nói cách khác, các ngài đã sống trọn hảo Tám Mối Phúc, được Chiên Thiên Chúa Giê-su Ki-tô chúc lành. Thử tìm hiểu xem vì sao mà Tám Mối Phúc đã giúp các thánh được vinh thăng Thiên Quốc:

 

1- Mối phúc 1 – Sống tinh thần khó nghèo: Chính Đức Giê-su Thiên Chúa Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.” (2 Cr 8, 9). Ai sống tinh thần nghèo khó tức là người ấy đã chọn Chúa Ki-tô làm gia nghiệp của mình (Tv 16, 5-6). Cái nghèo của Chúa Giê-su làm cho chúng ta được giàu sang chính là sự kiện Người đã “mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2, 7) trong cảnh nghèo khó, gánh lấy những yếu đuối, tội lỗi của con người, thông truyền cho trần thế lượng từ bi nhân hậu vô biên của Thiên Chúa.

 

Tinh thần nghèo khó ở đây có nghĩa là biết tự giới hạn trong sự chừng mực, giữ mình cho khỏi sự ham muốn của cải vật chất một cách quá đáng, không ham muốn hay chạy theo những điều xa hoa. Đó phải là người ưa chuộng cuộc sống đơn sơ, thanh bạch và biết dùng tiền của một cách chính đáng. Bất cứ trong hoàn cảnh nào, cũng phải coi của cải vật chất chỉ là một phương tiện sinh nhai, không bao giờ là cứu cánh cho cuộc sống trần gian đầy cám dỗ vật chất mê muội ("Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu." – Lc 12, 13). Tinh thần nghèo khó còn là đức tính thương cảm đùm bọc những anh em bất hạnh, khổ cực hơn mình (“Ai có hai áo thì chia cho người không có, ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy" – Lc 3, 11)..

 

2. Mối phúc 2 – Đức hiền lành, khiêm nhường: Người sống hiền lành khiêm nhường (Mt 5, 4) phải là sống giống Chúa Giê-su “hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2, 8). Khi bị treo trên thập giá, Người hiền lành đến nỗi đã xin Chúa Cha tha tội cho kẻ đã giết Người (Lc 23, 34). Phó tế Stê-pha-nô đã nên giống Chúa Giê-su, khi bị ném đá, ngài đã cầu nguyện cho kẻ hại mình với nội dung giống hệt lời cầu của Chúa Giê-su trên Thánh giá (“Rồi ông Stê-pha-nô quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: "Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này." Nói thế rồi, ông an nghỉ.” – Cv 7, 60). Bởi thế, ai yêu cả kẻ thù, sẵn sàng làm ơn cho kẻ hại mình, người đó được là em của Trưởng Tử Giê-su, cùng là Con Đấng Tối Cao (Lc 1, 32; 6, 35).

 

Đức khiêm hạ đứng hàng đầu trong 7 điều cải hối do 7 mối tội đầu. Khiêm nhường là tự coi mình là người dưới, là người phục vụ anh em ("Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là "Thầy", là "Chúa", điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em Ga 13, 12-16; "Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời." Mt 18, 4). Người khiêm nhường sẽ không phải bận tâm vì sợ kẻ khác đang đánh giá mình ra sao; sẽ được tự do, thong dong, tránh được những xúc cảm bồn chồn, lo lắng khi nghĩ đến những dèm pha, đố kỵ của tha nhân. Họ sẽ dễ cảm hóa được thái độ kiêu căng, thù địch, nóng nảy của người khác bằng chính tấm lòng khiêm nhu, đại lượng của mình.

 

3. Mối phúc 3 – Đức sầu khổ (khóc than): Người khóc lóc, sầu khổ ở đây là những người sống lương thiện, ngay lành mà gặp những buồn phiền, đau khổ trong những thử thách nghiệt ngã. Nhưng dù trong nghịch cảnh, người ấy vẫn kiên tâm chịu đựng vì vững lòng trông cậy nơi Thiên Chúa từ bi nhân hậu. Đó cũng là những người than khóc, ưu phiền vì tội lỗi đã mắc phạm, chỉ biết trông cậy vào lòng thương xót của Chúa, như tảng đá Phê-rô sau 3 lần chối Chúa, “Ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết.” (Mt 26, 75), hay như tên trộm lành cùng chịu treo trên thập giá với Đức Giê-su trên Núi Sọ (Lc 23, 43).

 

Than khóc vì những điều lầm lỗi của bản thân đã xúc phạm đến Chúa, đến anh em, chính là việc quay trở về của đứa con hoang đàng (dụ ngôn “Người cha nhân hậu” – Lc 15, 11-32); là người thu thuế đứng dưới cuối nhà thờ đấm ngực cầu xin: “Lạy Chúa, xin xót thương con là kẻ tội lỗi” (Lc 18, 11-14). Việc trở về với Thiên Chúa được gọi là việc hoán cải và hòa giải, mà nền tảng của việc hòa giải là niềm hy vọng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Sự trở về ấy là đích điểm đón nhận lòng thương xót của Chúa, vì Người chính là người cha nhân hậu sẵn lòng dang tay đón người con hoang đàng, sẵn sàng để 99 con chiên mà đi tìm một con chiên bị lạc, sẵn lòng tha thứ cho người thu thuế biết hối cải. Tuy vậy, cũng cần phải ý thức rằng sự khóc than cũng có hai chiều kích: một mặt tích cực là sự hối tiếc ăn năn về những sai phạm lầm lỗi của bản thân; nhưng mặt khác lại là tiêu cực khi khóc than hờn dỗi (than thân trách phận), thậm chí đi đến chỗ oán ghét Thiên Chúa. Chỉ thực sự được Thiên Chúa chúc phúc khi sự khóc than xuất phát tự tấm lòng ăn năn hối cải vì những lỗi lầm xúc phạm đến Chúa, đến anh em, đồng thời với tâm nguyện thiết tha cầu xin lòng thương xòt của Thiên Chúa.

 

4. Mối phúc 4 – Đức công chính (trọn lành): Người khao khát sống công chính là người  “gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng CHÚA giúp họ luôn thoát khỏi.” (Tv 34, 20); là “chính nhân được CHÚA thương cứu độ và bảo vệ chở che trong buổi ngặt nghèo, gặp nhiều nỗi gian truân sẽ được Thiên Chúa độ trì” (Tv 37, 39); “Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước của Cha họ.” (Mt 13, 43).  Đây là những người ao ước sống đời lành thánh và cố gắng làm tất cả những gì cần thiết để được như vậy.

 

Con người đầu tiên đã được Thiên Chúa sáng tạo trong tình trạng công chính (trọn lành); nhưng đã nghe lời ma quỷ cám dỗ, lạm dụng tự do của mình, đi ngược lại giới răn, không vâng phục Thiên Chúa. Vì phạm tội, con người đã làm mất sự thánh thiện và công chính từ nguyên thủy do Thiên Chúa ban, không những chỉ cho hai vị nguyên tổ (A-đam và E-và), mà còn cho tất cả nhân loại mãi mãi về sau. Sự mất mát này được gọi là "tội tổ tông". Do hậu qủa của tội nguyên tổ, sự chết đã xâm nhập thế gian, bản tính con người bị suy nhược, đau khổ, dễ xu hướng về sự tội. Sự "hướng chiều" này vẫn quen gọi là dục vọng (dục: ước muốn; vọng: hướng về). Tuy nhiên, nếu biết kiềm chế những đam mê, dục vọng có chiều hướng đi xuống, hạ thấp phẩm giá, nhân cách con người; từ đó hướng chiều lên đường ngay lẽ phải, kiên cường sống theo Lời Chúa dạy, ắt sẽ vượt thắng mọi thử thách, đạt tới sự công chính như lòng Chúa mong đợi.

 

Ơn Cứu Chuộc của Chúa Ki-tô hệ tại việc “Người đến để hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc muôn người" (Mt 20, 28). Nhờ sự tuân phục đầy tình thương đối với Thiên Chúa Cha, Đức Giê-su đã chịu chết trên thập giá, hoàn tất sứ mạng đền tội cho nhân loại như lời Tiên tri I-sai-a tiên báo: " Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ." (Is  53, 11). Cuộc khổ nạn và phục sinh vinh hiển của Người không những phục hồi phẩm giá, phục hồi lương tâm cho nhân loại, mà còn dẫn đưa con người trở về với con đường công chính: làm con cái Thiên Chúa. Chính ơn được "làm nghĩa tử" ấy giúp người tín hữu có khả năng “khát khao nên người công chính, và họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.” (Mt 5, 6).           

 

5. Mối phúc 5 – Đức thương người (bác ái): Người biết thương xót tha nhân là người sống được như người Sa-ma-ri nhân hậu, xót thương kẻ bị cướp đánh nửa sống nửa chết vất bỏ dọc đường, tận tình chăm sóc chu đáo (Lc 10, 29-37). Mẫu người này được Chúa Giê-su nói đến rõ ràng trong Tin Mừng về ngày cánh chung, họ là những người được Thiên Chúa chúc phúc: “Nào những kẻ Cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dành sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thành trời đất. Vì xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống. Ta là khách lạ, các nguơi đã tiếp rước, Ta trần truồng các nguơi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã chăm nom, Ta ngồi tù các ngươi đã thăm viếng” (Mt 25, 34-36).

 

Bác ái là tình yêu không chỉ giới hạn trong phạm vi giới tính (tình yêu nam nữ), mà rộng mở với mọi người không phân biệt thân sơ hay nội ngoại. Ki-tô giáo chủ ở đức bác ái: mến Chúa yêu người. Trong 10 điều răn Chúa truyền dạy, thì chỉ có 3 điều “mến Chúa”, mà có tới 7 điều “yêu người”, Hội Thánh cũng dậy “Thương người có 14 mối: Thương xác 7 mối và thương linh hồn 7 mối”, trong đó thể hiện thật rõ nét những việc làm cụ thể để biểu hiện lòng thương người. Kinh Thánh xác định rõ ràng: lòng yêu mến Thiên Chúa không thể tách rời khỏi tình yêu thương anh em (Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta…; nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau... Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo.” 1Ga 4, 10-12).

 

Ki-tô giáo được gọi là “Đạo Yêu Thương”, “Đạo Bác Ái” chính bởi vì chỉ có một tôn chỉ duy nhất: “Mến Chúa yêu người”. Với người Ki-tô hữu, thì bác ái là sống Đạo: thực hành Lời Chúa, sống Lời Chúa, sống Đức Tin ("Ai nghe lời Thầy  mà đem ra thực hành thì, Thày chỉ cho anh em hay, người đó giống như kẻ xây nhà, đã đào bới rất sâu, đã đặt nền móng trên đá...." ( Lc 6, 47-48), mà Lời dạy của Đức Ki-tô là: “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12). Bác ái không phải chỉ là lời khuyên, như nhiều người quan niệm có làm hay không cũng được; mà là một bổn phận, là một sứ vụ, là một hành vi phải được thực hiện; vì Lời Chúa dậy rõ ràng: "Đức tin không có việc làm là đức tin chết" (Gc 2, 14-15).

 

6. Mối phúc 6 – Đức trong sạch (khiết tịnh): Cũng vì "Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế." (Mc 7, 20-23); nên người có lòng trong sạch là người biết từ khước những thú vui bất chính làm thỏa mãn dục vọng và đam mê xác thịt, bởi “một khi dục vọng đã cưu mang thì đẻ ra tội; còn tội khi đã phạm rồi, thì sinh ra cái chết.” (Gc 1, 15).

 

Một trong 3 lời khuyên của Phúc Âm là đức khiết tịnh – lòng trong sạch. Giữ cho tâm hồn trong sạch, giữ cho đời sống thanh khiết, không vướng vào những hệ luỵ tiền tài, danh vọng, và nhất là sắc dục, đó là sống khiết tịnh. Đã có những giải thích chưa đúng về nhân đức khiết tịnh, cho rằng lời khuyên này của Phúc Âm chỉ dành riêng cho những bậc tu hành, còn những người sống bậc hôn nhân thì làm sao mà khiết tịnh cho nổi! Để tránh những hiểu lầm không đáng có, cần phải minh định ngay: Đức khiết tịnh nơi một bậc tu trì khác với nơi một người sống bậc hôn nhân. Ở bậc tu trì thì phải kiềm chế hoàn toàn vấn đề tình dục, còn ở bậc hôn nhân thì vấn đề tình dục chỉ là sống đúng với thiên chức vợ chồng, không lạm dụng, không mê đắm, sa đà quá độ và tuyệt đối không được thể hiện tình dục với người không phải là bạn đời của mình (ngoại tình, gian dâm, chơi bời trác táng…). 

 

7. Mối phúc 7 – Đức hoà thuận: Người biết tác tạo hòa bình chính là người ngăn cản không để cho sự bất công, gian ác tồn tại. Đây là bổn phận của người tin Chúa, nghĩa là tìm mọi cách và hết sức chân thành giúp người ta xóa bỏ hận thù, ghen ghét, chia rẽ và những cớ gây xích mích bất hòa, bởi vì luật căn bản Chúa đòi hỏi nơi con người là yêu thương nhau. Nói cách cụ thể là những ai biết sống tình huynh đệ với tha nhân thì người đó đem lại hòa bình cho mọi người, cũng bởi vì “Tình huynh đệ, nền tảng và là con đường dẫn đến hòa bình… Tình huynh đệ cần được khám phá, yêu mến, kinh nghiệm công bố và làm chứng. Nhưng chỉ có tình yêu, là một quà tặng từ Thiên Chúa, mới có thể giúp chúng ta đón nhận và kinh nghiệm một cách trọn vẹn tình huynh đệ này. (Sứ điệp “Ngày hòa bình thế giới – 2014”, số 4-10).

 

Trong gia đình biết sống hoà hiếu với nhau, ngoài xóm làng biết sống tương thân tương ái, rộng ra xã hội biết sống chan hoà yêu thương, cho chí phạm vi thế giới luôn biết cổ võ cho một nền hoà bình chân chính, đó là nhân đức hoà hiếu thuận thảo. Những người như thế sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Con Thiên Chúa là những ai biết hy sinh cho một nền hòa bình chân chính, trong đời sống riêng tư cũng như trong tập thể cộng đồng dân tộc, được thể hiện ngay trong cuộc sống thường ngày, được áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của từng cá nhân trong mỗi cảnh ngộ của riêng mình. Con Thiên Chúa là những ai đã hiến thân cả một đời cho nền hòa bình thực sự, vững bền, xứng đáng được những phần thưởng cao qúi nhất, danh dự nhất,.

 

Hội Thánh đã nhắn nhủ con cái mình: "Chúa Ki-tô đến để hiệp nhất những gì bị phân rẽ, để hủy diệt tội lỗi và hận thù, và để làm cho con người tái nhận thức được ơn gọi nên một và tình yêu huynh đệ. Thế nên, Ngài là nguồn mạch và là khuôn mẫu cho một nhân loại được đổi mới, thấm nhiễm tình huynh đệ, chân thành, và một tinh thần an bình mà mọi người khát vọng" (Sắc lệnh “Truyền Giáo – Ad Gentes”, số 8), bởi chính Chúa Giê-su đã dạy: "Thầy để sự bình an lại cho anh em, Thầy ban sự bình an của Thầy cho anh em, Thầy ban cho anh em sự an bình hoàn toàn khác với thế gían" (Ga 14, 27). Muốn có hòa bình thì phải biết xây dựng, bồi đắp lòng thương yêu, sự hòa thuận ngay từ trong gia đình đến những cộng đồng, tập thể, và rộng ra là xã hội. Và trên tất cả là phải biết cậy trông, tín thác vào chính Đức Ki-tô vì "Chính Ngài là sự an bình của chúng ta"  (Ep 2, 14), "Chớ gì Thiên Chúa của niềm hy vọng đổ đầy lòng anh chị em niềm vui và sự an bình như anh chị em đã tín thác nơi Ngài.” (Rm 15, 13).         

    

8. Mối phúc 8 – Đức hy sinh (bị bách hại): Đây chính là phúc tử vì đạo dành cho những ai dám chấp nhận mọi gian khổ và hy sinh để tuyên xưng và bảo vệ đức tin, khi vì đạo Chúa mà bị ngược đãi. (Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, … khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế" – Mt 5, 10-12).

 

Mầu nhiệm về công ơn cứu chuộc của Con Thiên Chúa xuống thế làm người được gắn liền với khổ giá của Chúa Ki-tô. Không qua con đường khổ giá và sự chết đau đớn của Chúa Cứu Thế, không thể mang lại hoa trái là đời sống vĩnh cửu của muôn người. Vì thế, qua các thời đại, người ta vẫn hiểu rằng, đây là trường hợp của những người bị xử tử, bị hành quyết, vì đức tin Công giáo, vì đạo thánh Chúa. Nhìn vào tấm gương 118 vị Thánh Tử vì Đạo Việt Nam để thấy được rằng các ngài đã chấp nhận hy sinh cả mạng sống mình vì Đao Chúa, vì Đức Tin Ki-tô giáo. Các ngài bị bách hại hoàn toàn không phải vì đời sống riêng tư của các ngài về đường chính trị (danh vọng, quyền lực) hay kinh tế (tiền của, vật chất), mà vì lòng dũng cảm tuyên xưng đức tin Ki-tô giáo, sự can đảm làm chứng nhân cho Tin Mừng Cứu độ của Đức Giê-su Ki-tô. Điều đó giúp cho các Ki-tô hữu – cách riêng, các Ki-tô hữu Việt Nam – hiểu sâu hơn về Đạo Chúa, về tinh thần sống Đạo, về cuộc sống chứng nhân Tin Mừng trước những thử thách nghiệt ngã, những bách hại tinh vi và khủng khiếp của ba thù trong thời đại văn minh hiện nay.

 

Tóm lại, các thánh là những người được thanh tẩy bằng Máu Thánh Đức Ki-tô, họ sống hiền lành, khiêm nhường, nghèo khổ, khao khát đức trọn lành, trong sạch vẹn tuyền, thương xót người như chính bản thân, sẵn sàng chịu đau khổ trước nghịch cảnh và nhất là sẵn sàng hòa trộn máu mình vào Máu Con Chiên khi bị bách hại vì lẽ công chính, để mang bình an đến cho tha nhân, góp phần xây dựng hòa bình. Nói cách khác các thánh nam nữ đã “nghe Lời Thầy Chí Thánh Giê-su Ki-tô dạy mà đem ra thực hành trong đời sống” – thông qua Tám mối Phúc thật – nên các ngài đã trở nên “đồng hình đồng dạng với Người”.

 

Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ hôm nay, người Ki-tô hữu hãy hân hoan cung chiêm và chúc tụng các thánh là những người bạn, cũng là những người anh chị em của mình; đồng thời biết hướng lòng về quê trời là cùng đích cuộc sống chứng nhân cho Thập Giá Chúa Ki-tô. Trong mầu nhiệm Giáo Hội hiệp thông, hãy cầu xin các thánh cầu bầu cho bản thân mỗi người, cũng như anh em còn đang trên hành trình tiến về quê thật, để mọi người nhận ra mình cũng được Chúa mời gọi nên thánh như các ngài, và nỗ lực sống đức tin, đức mến như các ngài đã sống, hầu mai sau cũng được hưởng vinh phúc với các ngài trên Thiên Quốc. Ước được như vậy.

 

Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong ngày đại lễ hôm nay, Chúa cho chúng con được mừng kính toàn thể các thánh trên trời. Nhờ bấy nhiêu vị thánh hằng nguyện giúp cầu thay, chúng con tin tưởng nài xin Chúa cho chúng con được dồi dào ân sủng như lòng vẫn ước mong. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Các Thánh Nam Nữ).

 

JM. Lam Thy ĐVD.