Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Mục tử nhân lành

Tác giả: 
JM. Lam Thy ĐVD.

 

 

MỤC TỬ NHÂN LÀNH (CN IV/PS-B “CHÚA CHIÊN LÀNH” – (cầu cho Ơn Thiên triệu linh mục và tu sĩ)

 

Bài Tin Mừng hôm nay (CN IV/PS-B – Ga 10, 11-18) trinh thuật Lời Đức Giê-su xác định Người là vị Mục Tử nhân lành. Trước khi nhận mình là Mục tử, Đức Ki-tô đã nói đến “ràn chiên” và tự nhận Người chính là cửa ra vào của ràn chiên đó và cho biết “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.” (Ga 10, 1-10). Nhưng vì sao Đức Ki-tô đã nhận mình là cửa chuồng chiên, lại tiếp tục nhận mình là Mục Tử? Ngay ở câu đầu tiên của đoạn Tin Mừng này, Người đã nói: "Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử.” Vấn đề đã rõ ràng:  Đức Ki-tô vừa là “cửa” canh giữ ngăn chặn sói dữ, người xấu, chỉ cho những con chiên ngoan hiền vào trong ràn; đồng thời Người còn là Mục tử chăn dắt đàn chiên đó.   

 

Nói đến vấn đề chăn nuôi súc vật (mục vụ) là nói đến vấn đề đòi hỏi phải có người trông nom coi sóc, nếu là người lớn thì được gọi là mục tử, nếu là trẻ em thì gọi là mục đồng. Có 2 dạng: hoặc người chăn nuôi (mục tử) ấy là chủ thực sự của đàn súc vật, hoặc là người làm thuê (do người chủ mướn trông coi đàn súc vật). Cũng có những người làm thuê tận tuỵ với công việc bằng một tình cảm thương yêu, chăm sóc đàn súc vật mà mình trông coi mướn như là của chính mình, hơn là vì đồng lương, tiền công mà chủ trả cho hàng tháng, hàng năm. Tuy nhiên, số này rất hiếm, đa số những người làm thuê thường chỉ làm việc cho tương xứng với tiền công như một sự trao đổi sòng phẳng (một bên bỏ ra tiền của, một bên bỏ ra công sức). Vì thế, những người làm thuê không thể sánh với chủ nhân của đàn súc vật đó. Người chủ thực sự không chỉ vì những lợi ích vật chất do đàn súc vật mang lại, nhất là khi đàn súc vật đó lại là những con chiên đẹp đẽ, ngoan hiền, dễ thương, thì người chủ còn coi đàn chiên như những con em ruột thịt của mình. Nói khác đi, người chủ không chỉ vì nhu cầu vật chất, mà còn coi đó là bổn phận, và hơn thế nữa là trách nhiệm của mình (lo lắng thực phẩm, săn sóc bệnh tật, thậm chi còn sẵn sàng bênh vực, che chở chúng trước những nanh vuốt kẻ thù như sói lang ác hiểm).

 

Kinh Thánh (kể cả Cựu Ước và Tân Ước) đã nói rất nhiều về mục tử và đàn chiên, trong đó phân biệt rất rõ ràng 2 dạng: Mục tử tốt và mục tử xấu:

 

1- Mục tử tốt: Đó là những mục tử có tinh thần trách nhiệm rất cao ("Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng." – Ed 34,16); luôn yêu thương, trìu mến đàn chiên với tất cả tâm hồn ("Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt." – Is 40, 11); chăm lo, săn sóc, tạo những điều kiện tốt đẹp cho chiên ("Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong những đồng cỏ mầu mỡ." – Ed 34,14); mưu cầu đời sống ấm no, hạnh phúc cho chiên, khiến chiên luôn vững dạ vì được bảo vệ ("Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì... Dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm." – Tv 23, 1.4).

 

Ngoài ra, người mục tử tốt còn có trach nhiệm cứu thoát, giải phóng đàn chiên khi bị sói lang giết hại ("Thiên Chúa sẽ cứu thoát dân Người, như mục tử cứu thoát đàn chiên." – Dcr 9,16); yêu quí từng con chiên, không để thất lạc dù chỉ một con ("Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc." – Mt 18, 12-13). Như vậy, người mục tử tốt lành thật sự yêu thương, sẵn sàng hy sinh cho sự an nguy và hạnh phúc của đàn chiên. Thậm chí như Đức Giê-su Ki-tô, người mục tử nhân lành tuyệt đối, sẵn sàng coi sự sống còn của đàn chiên còn quý hơn cả mạng sống mình ("Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên." – Ga 10, 14-15).

 

 2- Mục tử xấu: Đó là những kẻ vô trách nhiệm ("Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm." – Ed 34, 4); chẳng hề quan tâm tới đàn chiên ("Khốn thay những mục tử làm cho đàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác – Sấm ngôn của Đức Chúa – ... Các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng." – Gr 23, 2); chỉ nghĩ tới hưởng thụ, sẵn sàng bóc lột ("Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo chăn dắt." – Ed 34, 3); ích kỷ, vụ lợi, đầy tham vọng ("Chúng còn là lũ chó đói, ăn chẳng biết no. Thế mà chúng lại là mục tử, thứ mục tử chẳng biết phân biệt gì. Cả bọn - chẳng trừ ai - mạnh ai theo đường nấy, chỉ mưu tìm lợi lộc cho riêng mình." – Is 56, 11).

 

Không những thế, mục tử xấu còn mưu cầu quyền bính, chỉ lo thống trị hơn là chăn dắt, mà thống trị một cách tàn bạo, độc ác ("Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc." – Ed 34, 4; "Chính các ngươi đã làm cho đàn chiên của Ta phải tan tác, các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi – Sấm ngôn của Đức Chúa" – Gr 23, 2b). Nếu mục tử ấy là người làm thuê thì chỉ làm vì đồng lương, làm một cách tắc trách, không thiết gì đến chiên ("Người làm thuê vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên." – Ga 10, 12-13). Như vậy, mục tử xấu chỉ coi đàn chiên như là một phương tiện sinh nhai, bắt chúng phải hy sinh phục vụ cho lợi ích riêng tư của mình, không một chút tình thương đối với chúng.

 

Cũng chính vì còn nhiều mục tử xấu, nên cũng ngay từ thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã phán dạy: "Chính Ta sẽ quy tụ đàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa. Sấm ngôn của ĐỨC CHÚA." (Gr 23, 3-4). Các mục tử mà Đức Chúa đã hứa cho xuất hiện để chăn dắt đàn chiên của Người chính là các ngôn sứ, tư tế trong thời Cựu Ước và mở đầu thời kỳ Tân Ước, Thiên Chúa đã sai chính Con Một xuống làm mục tử duy nhất và vị Mục tử nhân lành đó chính là Đức Giê-su Ki-tô, Người không chỉ chăm lo cho ràn chiên tuyển chọn mà cả những ràn chiên khác trên khắp mặt đất nữa ("Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên... Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử." – Ga 10, 11-16).

 

Đức Giê-su đã mượn hình ảnh đàn chiên dễ thương để nói về những người tin và đi theo Người, đồng thời còn khẳng định chính Người chăn dắt đàn chiên với tấm lòng nhân hậu tuyệt đối vô song – Người chính là vị Mục Tử Nhân Lành duy nhất, bởi chính Người là Chủ của đàn chiên trần thế, là Chúa Chiên nhân lành vậy. Hiểu sâu vào vấn đề, thì vị Mục Tử nhân lành ấy được Chúa Cha sai đi chăn dắt con người (chiên) về đường linh thiêng, nên còn gọi là linh mục, và chính Người là Linh Mục Thượng Phẩm, Linh Mục Duy Nhất (“việc tham dự của các tín hữu giáo dân vào ba chức vụ của Đức Ki-tô đòi hỏi phải sống và thực hiện trong sự thông hiệp, và để cho sự thông hiệp ngày càng tăng trưởng. Thánh Au-gus-ti-nô viết: "Cũng như chúng ta tất cả được gọi là Kitô-hữu (Christiani) vì đã được xức dầu (Chrisma) một cách thiêng liêng, do đó tất cả được gọi là linh mục, bởi vì chúng ta là thành phần thân thể của Linh Mục Duy Nhất" (De Civitate Dei – XX, 10).” – Tông huấn Ki-tô hữu Giáo dân “Christi Fideles Laici”, số 14).

 

Về lý thuyết thì tất cả mọi Ki-tô hữu đều là linh mục (tư tế cộng đồng), nhưng thực tế để có thể điều hành hoạt động của Giáo hội, thì lại rất cần có hàng ngũ những người trực tiếp thừa kế (tư tế thừa tác) sứ vụ của Linh Mục Duy Nhất Giê-su Ki-tô, thông qua Bí tích Truyền Chức ("Danh từ "hàng Linh Mục" đươc chọn với mục đích để chỉ định toàn thể hàng ngũ Linh Mục. Chúa Giê-su đã cho toàn thể Dân Chúa tham dự vào chức linh mục của Người  nhưng Người còn muốn thiết lập những "thừa tác viên" của Người, những người này nhờ bí tích Truyền Chức được quyền dâng thánh lễ, quyền tha tội và thực hành chức vụ linh mục nhân danh Chúa Ki-tô." – SL "Chức vụ và đời sống các linh mục", số 2). Hai chức vụ tư tế đó quan hệ mật thiết với nhau, chức vụ này vừa là tiền đề vừa là kết quả của chức vụ kia và ngược lại. Lý do cũng dễ hiểu: không thể có những phần tử lãnh nhận chức vụ tư tế thừa tác nếu không có hàng ngũ tư tế cộng đồng, ngược lai hàng ngũ tư tế cộng đồng muốn không bị khủng hoảng để đi đến tan rã, cũng rất cần thiết phải có người trông coi, chăm sóc, đó là những tư tế thừa tác. Nói cụ thể hơn, không có Giáo dân (đoàn chiên của Chúa) thì không thể có Linh mục, mà không có Linh mục thì đoàn chiên sẽ bị xẻ đàn tan nghé ngay.

 

Tư tế cộng đồng (Giáo dân) hay tư tế thừa tác (Linh mục) thì cũng đều là con người, mà nói về con người thì “nhân vô thập toàn”, không một cá nhân nào được thập phần hoàn hảo, có ưu điểm thì cũng có khuyết điểm, đó cũng là lẽ tất nhiên. Trong  đoàn chiên của Chúa có rất nhiều những con chiên ngoan hiền dễ thương, biết vâng nghe lời chủ, thì cũng không thiếu những con chiên lạc đàn, chạy theo bầy sói dữ, thậm chí còn quay lại chống trả và giết hại cả chủ chăn (mục tử). Cũng vậy, trong hàng ngũ mục tử – những thừa tác viên kế nghiệp Mục tử nhân lành Giê-su Ki-tô – có rất nhiều những mục tử xứng đáng với vai trò và trách vụ của mình đã được chính Đức Ki-tô trao phó trong bữa Tiệc Ly ("Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en." – Lc 22, 29-30); nhưng cũng vẫn còn những mục tử bất trung, phạm những lỗi lầm nghiêm trọng, như "Thư gởi các linh mục nhằm thiết lập năm linh mục" (16/6/2009), ĐTC Bê-nê-đic-tô XVI đã viết:

 

"Bất hạnh thay, cũng tồn tại những hoàn cảnh, không bao giờ lấy làm tiếc đủ, mà chính Giáo Hội phải chịu vì sự bất trung của một số thừa tác viên của mình. Và đối với thế giới, đó là một cái cớ gương mù và khước từ. Trong những trường hợp như thế, những gì có thể là ích lợi cho Giáo Hội, đó không chỉ là nhận ra đầy đủ những yếu đuối của các thừa tác viên của mình, nhưng còn là một ý thức mới mẻ và phấn khởi về sự cao cả của ân huệ của Thiên Chúa, được cụ thể hóa nơi những hình ảnh sáng ngời của những mục tử quảng đại, những tu sĩ rực cháy tình yêu đối với Thiên Chúa và các linh hồn, những vị linh hướng sáng suốt và kiên nhẫn." (xc thêm "Thư đề ngày 20/3/2010 của ĐTC Bê-nê-đic-tô XVI gửi Giáo Hội Ai-len" v/v một số linh mục xâm phạm tình dục trẻ em – nguồn Thanhlinh.net). Vì thế, chúng ta không quá lạc quan để cho rằng đoàn chiên của Chúa cũng như những vị mục tử thừa kế sứ vụ của Mục Tử Nhân Lành Giê-su Ki-tô, tất cả đều tốt lành, hoàn hảo; nhưng đồng thời cũng không quá bi quan để cho rằng tất cả đều xấu.

 

Suy niệm bài Tin Mừng hôm nay, khiến liên tưởng tới bài Tin Mừng CN III/PS-C (Ga 21, 1-19) cùng nói về công việc chăn dắt chiên (mục vụ). Một chi tiết rất đáng lưu ý là: Đức Ki-tô 3 lần gặng hỏi Thánh Phê-rô: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không?" Lần đầu khi nghe Thánh Phê-rô trả lời: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy", thì Đức Ki-tô bảo: "Hãy chăm sóc chiên con của Thầy"; nhưng đến lần thứ ba thì Người lại bảo: "Hãy chăm sóc chiên của Thầy". Nếu chỉ thoáng nghe thì không thấy có gì khác, nhưng để ý một chút thì 2 Lời dạy này có khác nhau. Lần trước, Đức Ki-tô nói hãy chăm sóc "chiên con", lần sau Người chỉ nói hãy chăm sóc "chiên". Trong đàn chiên, có chiên con tất nhiên phải có chiên mẹ, Thiên Chúa luôn bao bọc chở che cả chiên mẹ và chiên con dưới cánh tay nhân từ của Người ("Chúa tập trung cả đàn chiên dưới cánh tay: lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt." – Is 40,11).

 

Khi Đức Ki-tô bảo Thánh Phê-rô chăm sóc "chiên con" là Người muốn nói đến vai trò chiên mẹ, tức là chức linh mục của Tông đồ Phê-rô; nhưng khi Người bảo chăm sóc "chiên" (nói chung) là Người muốn nói đến toàn bộ đàn chiên (cả chiên mẹ và chiên con) và đó chính là sứ vụ của Tảng đá Phê-rô ("anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy." – Mt 16, 18). Một cách cụ thể thì đó là sứ vụ trông coi cả Giáo Hội. Tuy Đức Giê-su Ki-tô không nói rõ, nhưng Người đã muốn các mục tử (chiên mẹ) hãy chăm sóc chiên con cho tử tế. Mục tử phải là "chiên mẹ", là chúa chiên, là chủ chăn chính hiệu, chớ không thể là người làm thuê, chăn mướn. Và tất nhiên, chiên con (giáo dân) phải biết yêu mến và nghe lời chiên mẹ (linh mục). Cũng giống như bàn tay có ngón dài ngón ngắn, con cái có đứa thế này đứa thế khác, nhưng tựu trung nó vẫn là con của mình. Con ngoan hiền thì mẹ hưởng phúc, con hư dại thì mẹ... lãnh đủ! ("con dại cái mang" – tục ngữ VN). Cũng thế, những "chiên con" có thể bị sa chước cám dỗ của "ba thù", có thể lầm lạc, sai lỗi, có thể đối lập với "chiên mẹ", nhưng không bao giờ coi chiên mẹ là đối thủ, là kẻ thù. Đến như kẻ thù mà vị Mục tử nhân lành Giê-su Ki-tô còn dạy phải yêu thương họ, huống hồ là tình mẹ con giữa "chiên mẹ" và "chiên con".

 

Ngay từ những ngày đầu tiên hạt giống đức tin được gieo trên mảnh đất hình cong chữ S, thì đàn chiên Việt Nam đã gọi những người chăn chiên bằng tiếng "cha" thân thương. Trong sinh hoạt tôn giáo, đây không chỉ là cách xưng hô trong giao tiếp, mà thực sự còn cư xử với nhau như cha con ruột thịt. Mối tình phụ tử đó được triển nở trong môi trường văn hoá dân tộc truyền thống nhờ xây dựng trên nền tảng Lời Chúa, mà Lời Chúa lại dạy đó là chiên mẹ và chiên con, là mối tình mẫu tử. Cứ theo thường tình thế sự thì tình mẫu tử bao giờ cũng thắm thiết, gắn bó, nồng ấm hơn tình phụ tử. Vậy thì không lý do gì mà không phát huy mối dây liên kết hỗ tương giữa hàng linh mục và giáo dân cho ngày một thắm thiết hơn, như mối keo sơn gắn bó mọi thành phần Giáo hội, giúp vuợt qua bao thăng trầm lịch sử, để hướng tới một tương lai xán lạn là cả chiên mẹ và chiên con vui vầy nằm nghỉ trên đồng cỏ xanh tươi bát ngát (Tv 23) mà Thiên Chúa đã ban tặng. Ước được như vậy.

 

Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Ðức Kitô, vị Mục Tử oai hùng của chúng con, đã khải hoàn tiến vào thiên quốc; xin cho chúng con là đoàn chiên hèn mọn cũng được theo gót Người vào chung hưởng hạnh phúc vô biên. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Chúa nhật IV/PS-B).

 

JM. Lam Thy ĐVD.