Ơn gọi đời sống Thánh Hiến
ƠN GỌI ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN
(CN IV.PS-B – CẦU CHO ƠN THIÊN TRIỆU)
Vấn đề chăn nuôi súc vật (mục vụ) đòi hỏi phải có người trông nom coi sóc, nếu là người lớn thì được gọi là mục tử, nếu là trẻ em thì gọi là mục đồng. Có hai dạng: hoặc người chăn nuôi (mục tử) ấy là chủ thực sự của đàn súc vật, hoặc là người làm thuê (do chủ mướn trông coi đàn súc vật). Cũng có những người làm thuê tận tụy với công việc bằng một tình cảm thương yêu, chăm sóc đàn súc vật mà mình trông coi mướn như là của chính mình, hơn là vì đồng lương, tiền công mà chủ trả cho hàng tháng, hàng năm. Tuy nhiên, số này rất hiếm, đa số những người làm thuê thường chỉ làm việc cho tương xứng với tiền công như một sự trao đổi sòng phẳng (một bên bỏ ra tiền của, một bên bỏ ra công sức).
Vì thế, những người làm thuê không thể sánh với chủ nhân của đàn súc vật đó. Người chủ thực sự không chỉ vì những lợi ích vật chất do đàn súc vật mang lại, nhất là khi đàn súc vật đó lại là những con chiên đẹp đẽ, ngoan hiền, dễ thương, thì người chủ còn coi đàn chiên như những con em ruột thịt của mình. Nói khác đi, người chủ không chỉ vì nhu cầu vật chất, mà còn coi đó là bổn phận, và hơn thế nữa là trách nhiệm của mình (lo lắng thực phẩm, săn sóc bệnh tật, thậm chi còn sẵn sàng bênh vực, che chở chúng trước những nanh vuốt kẻ thù như sói lang ác hiểm).
Trong bài Tin Mừng hôm nay (CN IV/PS-B – Ga 10, 11-18), Đức Giê-su đã mượn hình ảnh đàn chiên dễ thương để nói về những người tin và đi theo Chúa; đồng thời Người còn khẳng định chính Người chăn dắt đàn chiên với tấm lòng nhân hậu tuyệt đối vô song – Người chính là vị Mục Tử Nhân Lành duy nhất. Kinh Thánh (kể cả Cựu Ước và Tân Ước) đã nói rất nhiều về mục tử và đàn chiên, trong đó phân biệt rất rõ ràng 2 dạng: Mục tử tốt và mục tử xấu.
1- Mục tử tốt: Đó là những mục tử có tinh thần trách nhiệm rất cao ("Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng." – Ed 34, 16). Mục tử luôn yêu thương, trìu mến đàn chiên với tất cả tâm hồn, chăm lo, săn sóc, tạo những điều kiện tốt đẹp cho chiên; mưu cầu đời sống ấm no, hạnh phúc cho chiên, khiến chiên luôn vững dạ vì được bảo vệ. Mục tử còn cứu thoát, giải phóng đàn chiên khi bị sói lang giết hại; yêu quí từng con chiên, cả chiên mẹ và chiên con ("Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong những đồng cỏ mầu mỡ." – Ed 34,14).
Như vậy, người mục tử tốt lành thật sự yêu thương đàn chiên, sẵn sàng hy sinh cho sự an nguy và hạnh phúc của đàn chiên. Đặt giả thử trong một đàn chiên 100 con mà không may một con bị lạc, thì người mục tử ấy sẵn sàng bằng mọi giá đi tìm cho bằng được. “Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại ăn mừng vì đã tìm được con chiên bị mất đó.” (Lc 15, 4-6) Thậm chí như Đức Giê-su Ki-tô, người mục tử nhân lành tuyệt đối, sẵn sàng coi sự sống còn của đàn chiên còn quý hơn cả mạng sống mình ("Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên." – Ga 10, 14-15).
2- Mục tử xấu: Đó là những kẻ vô trách nhiệm, chẳng hề quan tâm tới đàn chiên; chỉ nghĩ tới hưởng thụ, sẵn sàng bóc lột (“Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc.” – Ed 34, 3-4). Mục tử xấu là hạng người ích kỷ, vụ lợi, đầy tham vọng, lo thống trị hơn là chăn dắt, mà thống trị một cách tàn bạo, độc ác ("Chúng còn là lũ chó đói, ăn chẳng biết no. Thế mà chúng lại là mục tử, thứ mục tử chẳng biết phân biệt gì. Cả bọn - chẳng trừ ai - mạnh ai theo đường nấy, chỉ mưu tìm lợi lộc cho riêng mình." – Is 56, 11).
Còn hạng mục tử làm thuê thì chỉ làm vì đồng lương, không thiết gì đến chiên ("Người làm thuê vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên.” – Ga 10, 12-13; "Chính các ngươi đã làm cho đàn chiên của Ta phải tan tác, các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi – Sấm ngôn của Đức Chúa." – Gr 23, 2b). Như vậy, mục tử xấu chỉ coi đàn chiên như là một phương tiện sinh nhai, bắt chúng phải hy sinh phục vụ cho lợi ích riêng tư của mình, không một chút tình thương đối với chúng.
Cũng chính vì còn nhiều mục tử xấu, nên cũng ngay từ thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã phán dạy: "Chính Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa. Sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.” (Gr 23, 3-4). Các mục tử mà Đức Chúa đã hứa cho xuất hiện để chăn dắt đàn chiên của Người chính là các ngôn sứ, tư tế trong thời Cựu Ước và mở đầu thời kỳ Tân Ước, Thiên Chúa đã sai chính Con Một xuống làm mục tử duy nhất và vị Mục tử nhân lành đó chính là Đức Giê-su Ki-tô.
Đức Ki-tô chính là Chủ của đàn chiên trần thế, là Chúa Chiên nhân lành. Người không chỉ chăm lo cho ràn chiên tuyển chọn mà cả những ràn chiên khác trên khắp mặt đất nữa ("Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên... Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên... Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử." – Ga 10, 11-16). Hiểu sâu vào vấn đề, thì vị Mục Tử nhân lành ấy được Chúa Cha sai đi chăn dắt con người (chiên) về đường linh thiêng, nên còn gọi là linh mục, và chính Người là Linh Mục Thượng Phẩm, Linh Mục Duy Nhất như Tông huấn Ki-tô hữu Giáo dân “Christi Fideles Laici” (số 14) khẳng định: ”Thánh Au-gus-ti-nô viết: ‘Cũng như chúng ta tất cả được gọi là Kitô-hữu (Christiani) vì đã được xức dầu (Chrisma) một cách thiêng liêng, do đó tất cả được gọi là linh mục, bởi vì chúng ta là thành phần thân thể của Linh Mục Duy Nhất’ (De Civitate Dei - XX, 10)."
Về lý thuyết thì tất cả mọi Ki-tô hữu đều là linh mục (tư tế cộng đồng), nhưng thực tế để có thể điều hành hoạt động của Giáo hội, thì lại rất cần có hàng ngũ những người trực tiếp thừa kế (tư tế thừa tác) sứ vụ của Linh Mục Duy Nhất Giê-su Ki-tô, thông qua Ơn Thiên Triệu – Bí tích Truyền Chức. Đó là hàng ngũ Linh mục ("Danh từ "hàng Linh Mục" đươc chọn với mục đích để chỉ định toàn thể hàng ngũ Linh Mục. Chúa Giê-su đã cho toàn thể Dân Chúa tham dự vào chức linh mục của Người, nhưng Người còn muốn thiết lập những "thừa tác viên" của Người, những người này nhờ bí tích Truyền Chức được quyền dâng thánh lễ, quyền tha tội và thực hành chức vụ linh mục nhân danh Chúa Ki-tô." – Sắc lệnh "Chức vụ và đời sống các linh mục", số 2).
Hai chức vụ tư tế đó (tư tế cộng đồng + tư tế thừa tác) quan hệ mật thiết với nhau, chức vụ này vừa là tiền đề vừa là kết quả của chức vụ kia và ngược lại. Lý do cũng dễ hiểu: không thể có những phần tử lãnh nhận chức vụ tư tế thừa tác nếu không có hàng ngũ tư tế cộng đồng (tư tế cộng đồng lập gia đình, sinh sản những nhân tố lãnh nhận chức tư tế thừa tác); ngược lại, hàng ngũ tư tế cộng đồng muốn không bị khủng hoảng để đi đến tan rã, cũng rất cần thiết phải có người trông coi, chăm sóc, đó là những tư tế thừa tác. Nói cụ thể hơn, không có Giáo dân (đoàn chiên của Chúa) thì không thể có Linh mục, mà không có Linh mục thì đoàn chiên sẽ bị xẻ đàn tan nghé ngay. Tư tế cộng đồng (Giáo dân) hay tư tế thừa tác (Linh mục) thì cũng đều là con người, mà nói về con người thì “nhân vô thập toàn”, không một cá nhân nào được thập phần hoàn hảo, có ưu điểm thì cũng có khuyết điểm, đó cũng là lẽ tất nhiên.
Trong đoàn chiên của Chúa có rất nhiều những con chiên ngoan hiền dễ thương, biết vâng nghe lời chủ, thì cũng không thiếu những con chiên lạc đàn, chạy theo bầy sói dữ, thậm chí còn quay lại chống trả và giết hại cả chủ chăn (mục tử). Cũng vậy, trong hàng ngũ mục tử – những thừa tác viên kế nghiệp Mục tử nhân lành Giê-su Ki-tô – có rất nhiều những mục tử xứng đáng với vai trò và trách vụ của mình đã được chính Đức Ki-tô trao phó trong bữa Tiệc Ly ("Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en." – Lc 22, 29-30); nhưng cũng vẫn còn những mục tử bất trung, phạm những lỗi lầm nghiêm trọng.
Trong "Thư gởi các linh mục nhằm thiết lập năm linh mục" (16/6/2009), ĐTC Bê-nê-đic-tô XVI đã viết: "Bất hạnh thay, cũng tồn tại những hoàn cảnh, không bao giờ lấy làm tiếc đủ, mà chính Giáo hội phải chịu vì sự bất trung của một số thừa tác viên của mình. Và đối với thế giới, đó là một cái cớ gương mù và khước từ. Trong những trường hợp như thế, những gì có thể là ích lợi cho Giáo hội, đó không chỉ là nhận ra đầy đủ những yếu đuối của các thừa tác viên của mình, nhưng còn là một ý thức mới mẻ và phấn khởi về sự cao cả của ân huệ của Thiên Chúa, được cụ thể hóa nơi những hình ảnh sáng ngời của những mục tử quảng đại, những tu sĩ rực cháy tình yêu đối với Thiên Chúa và các linh hồn, những vị linh hướng sáng suốt và kiên nhẫn." (xc. thêm "Thư đề ngày 20/3/2010 của ĐTC Bê-nê-đic-tô XVI gửi Giáo Hội Ai-len" v/v một số linh mục xâm phạm tình dục trẻ em). Thánh GH Gio-an Phao-lô II trong suốt triều đại của ngài cũng luôn xin lỗi về những sai phạm của các linh mục, nhất là các linh mục trẻ.
Ngay đến ĐGH Phan-xi-cô cũng luôn bày tỏ nỗi buồn và khiêm tốn xin lỗi vì có những linh mục xâm phạm tình dục trẻ em. Ngài bày tỏ lập trường này trong lời tựa viết cho cuốn sách tựa đề “Mon Père, je vous pardonne” (Thưa cha, con tha thứ cho cha) của tác giả Daniel Pittet người Thụy Sĩ, tự thuật sự kiện chính ông bị một linh mục dòng Capuchino ở Fribourg lạm dụng tình dục trong 4 năm kể từ khi ông 12 tuổi. ĐTC viết: ”Làm sao một linh mục, phục vụ Chúa Ki-tô và Giáo hội, có thể gây ra sự ác dường ấy? Làm sao người ấy đã dâng hiến cuộc sống của mình để dẫn đưa các trẻ em về với Thiên Chúa, rốt cuộc lại 'ngấu nghiến' các em trong điều mà tôi gọi là ”một hy tế ma quỉ”, tàn hại nạn nhân cũng như đời sống của Giáo hội? Một số nạn nhân đi tới độ tự tử. Những người chết ấy đè nặng trên tâm hồn tôi, trên lương tâm của tôi và của toàn thể Giáo hội. Với gia đình họ, tôi bày tỏ tâm tình yêu thương và đau đớn, và tôi khiêm tốn xin lỗi.” (nguồn: Đài Vatican 13/02/2017).
Vào buổi sáng ngày 16-01-2018, trong cuộc gặp gỡ 700 người gồm chính quyền, ngoại giao đoàn và đại diện các giới văn hóa và xã hội, cũng như trong cuộc gặp gỡ các linh mục, tu sĩ nam nữ và chủng sinh Chile tại Nhà thờ chính tòa Santiago, ĐTC Phan-xi-cô đã công khai bày tỏ sự ”đau buồn và xấu hổ” vì tai ương các nhân viên của Giáo hội lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên, gây thiệt hại nặng nề cho các nạn nhân và Giáo hội. Đến 21 giờ, ĐTC đã gặp một nhóm nhỏ các nạn nhân bị giáo sĩ lạm dụng tính dục tại Chile. Không có ai khác hiện diện, chỉ có ĐTC và các nạn nhân, để họ có thể kể lại những đau khổ của họ với ngài. Ngài đã lắng nghe, cầu nguyện và đã khóc với họ. (nguồn: Đài Vatican 17/01/2018)
Quả thật đó là một sự kinh tởm tuyệt đối, một tội ác khủng khiếp, hoàn toàn trái ngược với tất cả những gì Thiên Chúa dành cho nhân loại mà Đức Ki-tô đã giảng dạy cho tín hữu. Chúa Giê-su dùng những lời rất nghiêm khắc chống lại tất cả những người làm hại các trẻ em: ”Ai làm gương xấu cho một trong những trẻ nhỏ này là những người tin nơi tôi, thì chẳng thà cột cối đá vào cổ họ và ném xuống biển còn hơn.” (Mt 18, 6). Không những thế, Người còn “đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: "Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy." (Mc 9, 36-37).
Vì thế, không quá lạc quan để cho rằng đoàn chiên của Chúa cũng như những vị mục tử thừa kế sứ vụ của Mục Tử Nhân Lành Giê-su Ki-tô, tất cả đều tốt lành, hoàn hảo; nhưng đồng thời cũng không quá bi quan để cho rằng tất cả đều xấu. Có một điều rất đáng để suy gẫm trong bài Tin Mừng CN III/PS-C (Ga 21, 1-19) cùng nói về công việc chăn dắt chiên (mục vụ), đó là: Đức Ki-tô 3 lần gặng hỏi Thánh Phê-rô: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không?" Lần đầu khi nghe Thánh Phê-rô trả lời: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy", thì Đức Ki-tô bảo: "Hãy chăm sóc chiên con của Thầy"; nhưng lần thứ hai Người cũng hỏi và Phê-rô trả lời như vậy, thì Người lại bảo: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy"; đến lần thứ ba thì Người vẫn nói: "Hãy chăm sóc chiên của Thầy". Sự kiện này có ý nghĩa gì?
Nếu chỉ thoáng nghe thì không thấy có gì khác, nhưng để ý một chút thì 2 Lời dạy này có khác nhau. Lần trước, Đức Ki-tô nói hãy chăm sóc "chiên con", lần sau Người chỉ nói hãy chăm sóc "chiên". Trong đàn chiên, có chiên con tất nhiên phải có chiên mẹ, Thiên Chúa luôn bao bọc chở che cả chiên mẹ và chiên con dưới cánh tay nhân từ của Người ("Chúa tập trung cả đàn chiên dưới cánh tay: lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt." – Is 40, 11). Khi Đức Ki-tô bảo Thánh Phê-rô chăm sóc "chiên con" là Người muốn nói đến vai trò chiên mẹ, tức là chức linh mục của Tông đồ Phê-rô; nhưng khi Người bảo chăm sóc "chiên" (nói chung) là Người muốn nói đến toàn bộ đàn chiên (cả chiên mẹ và chiên con) và đó chính là sứ vụ “chăm sóc toàn thể các Linh mục và Giáo dân” của mục tử Tảng Đá (Phê-rô) – Giáo hoàng tiên khởi của Hội Thánh (“Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy.” – Mt 16, 18).
Tuy Đức Giê-su Ki-tô không nói rõ, nhưng Người đã muốn các mục tử (chiên mẹ) hãy chăm sóc chiên con cho tử tế. Mục tử phải là "chiên mẹ", là chúa chiên, là chủ chăn chính hiệu chớ không thể là người làm thuê, chăn mướn. Và tất nhiên, chiên con (giáo dân) phải biết yêu mến và nghe lời chiên mẹ (linh mục). Cũng giống như bàn tay có ngón dài ngón ngắn, con cái có đứa thế này đứa thế khác, nhưng tựu trung nó vẫn là con của mình. Con ngoan hiền thì mẹ hưởng phúc, con hư dại thì mẹ... lãnh đủ! ("con dại cái mang" – tục ngữ VN). Cũng thế, những "chiên con" có thể bị sa chước cám dỗ của "ba thù", có thể lầm lạc, sai lỗi, có thể đối lập với "chiên mẹ", nhưng không bao giờ coi chiên mẹ là đối thủ, là kẻ thù. Đến như kẻ thù mà vị Mục tử nhân lành Giê-su Ki-tô còn dạy phải yêu thương họ, huống hồ là tình mẹ con giữa "chiên mẹ" và "chiên con".
Đó là nội dung Lời Chúa Chúa nhật IV Phục Sinh. Ngoài ra, Giáo hội còn quy định Chúa nhật IV Phục Sinh dành riêng “cầu cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ”. Ngày 4-12-2017, ĐGH Phan-xi-cô công bố Sứ điệp “Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi 2018”. ĐTC lần lượt phân tích 3 thái độ liên quan đến ơn gọi là lắng nghe, phân định và sống:
- Lắng nghe: Lời mời gọi của Thiên Chúa lúc đầu được nói với mỗi người không rõ ràng dứt khoát như những điều chúng ta nghe, thấy hoặc đụng chạm được trong kinh nghiệm thường ngày. Thiên Chúa đến cách âm thầm và kín đáo mà không gây tổn hại đến tự do của chúng ta. Vì thế, điều có thể xảy ra là lời mời gọi của Ngài bị muôn vàn bận tâm và lo toan nhấn chìm, những điều ấy phủ đầy tâm trí của chúng ta. Sau đó, chúng ta không chỉ cần học lắng nghe một cách chăm chú lời của Ngài và câu chuyện đời Ngài; nhưng chúng ta còn chú tâm đến từng chi tiết của đời sống hằng ngày, để học biết thế nào là quan sát mọi điều với con mắt đức tin và giữ chúng ta rộng mở với những ngạc nhiên của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta sẽ chẳng bao giờ phát hiện ra lời mời gọi đặc biệt và riêng tư mà Thiên Chúa hiện hữu ở đó ban cho chúng ta, nếu chúng ta vẫn đóng kín mình trong những cách thế hành động bình thường, trong cách của kẻ phung phí cuộc sống vào thế giới nhỏ hẹp của họ. Chúng ta sẽ mất cơ hội ước mơ những điều lớn lao để tham gia vào câu chuyện duy nhất và căn bản mà Thiên Chúa muốn viết lên cùng với chúng ta. Vì vậy, chúng ta đến khám phá ơn gọi Ki-tô hữu luôn có một chiều kích ngôn sứ: vừa lắng nghe Lời Chúa vừa loan báo Lời Ngài cho muôn dân.
- Phân định: Khi Chúa Giê-su trong hội đường Na-za-rét đọc đoạn sách tiên tri Isaia, Ngài phân định nội dung của sứ mạng mà Ngài được sai phái, và đoạn văn ấy trình bày cho những ai đang mong đợi Mê-si-a: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết họ sẽ được sáng mắt, trả lại tự do người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4, 18 – 19). Tương tự, mỗi người chúng ta có thể khám phá ra ơn gọi của mình chỉ ngang qua việc phân định thiêng liêng. Nghĩa là “một tiến trình mà người ta thực hiện dựa trên những lựa chọn nền tảng, trong việc đối thoại với Thiên Chúa và lắng nghe tiếng nói của Thần Khí, hãy bắt đầu với lựa chọn bậc sống của chính mình.”
Hôm nay chúng ta cũng có nhu cầu lớn lao về phân định và về tiên tri. Chúng ta phải tránh xa những cám dỗ của hệ tư tưởng và tiêu cực. Để khám phá tương quan của ta với Thiên Chúa, qua những nơi chốn, những phương tiện và qua những cảnh huống có thể Ngài mời gọi chúng ta. Mỗi người Ki-tô hữu nên phát triển khả năng “đọc nội tâm – read within” nơi cuộc đời của mình, và để hiểu nơi nào và điều gì mình có thể đang được Thiên Chúa mời gọi, để đảm nhận sứ mạng của Ngài.
- Sống: Niềm vui Tin Mừng là điều khiến chúng ta mở ra để gặp gỡ Thiên Chúa và anh chị em của chúng ta; nó không cho phép chúng ta lưỡng lự và biếng nhác. Nó sẽ không lấp đầy trái tim ta nếu chúng ta cứ đứng ở cửa sổ với lý do chờ mong cho đúng giờ, mà không chấp nhận những rủi ro khi chính hôm nay chúng ta quyết định. Ơn gọi là hôm nay! Sứ mạng người Ki-tô hữu là lúc này! Mỗi người chúng ta được mời gọi để trở nên chứng nhân của Thiên Chúa lúc này và ở đây, dù trong đời sống hôn nhân, trong đời sống linh mục sứ vụ, hay trong đời sống ơn gọi thánh hiến.
“Hôm nay” là điều Chúa Giê-su đã công bố, bảo đảm cho chúng ta rằng Thiên Chúa tiếp tục xuống thế để cứu độ gia đình nhân loại của chúng ta và cho chúng ta chia sẻ sứ mạng của Ngài. Thiên Chúa tiếp tục mời gọi người khác sống với Ngài và để theo Ngài trong tương quan gần gũi thân thiết. Ngài tiếp tục mời gọi tha nhân trực tiếp phục vụ Ngài. Nếu Ngài cho chúng ta nhận ra Ngài đang mời gọi ta, thì ta hãy thánh hiến chính mình cách trọn vẹn cho vương quốc của Ngài; sau đó, chúng ta không còn sợ hãi! Thật đẹp biết bao, và đó là một ân huệ lớn lao, để được thánh hiến cách trọn vẹn và mãi mãi cho Thiên Chúa và phục vụ anh chị em mình.
Với Giáo hội Việt Nam, ngay từ những ngày đầu tiên hạt giống đức tin được gieo trên mảnh đất hình cong chữ S, thì đàn chiên đã gọi những mục tử bằng tiếng "cha" thân thương. Trong sinh hoạt tôn giáo, đây không chỉ là cách xưng hô trong giao tiếp, mà thực sự còn cư xử với nhau như cha con ruột thịt. Mối tình phụ tử đó được triển nở trong môi trường văn hoá dân tộc truyền thống nhờ xây dựng trên nền tảng Lời Chúa, mà Lời Chúa lại dạy đó là chiên mẹ và chiên con, là mối tình mẫu tử. Vậy thì không lý do gì mà không phát huy mối dây liên kết hỗ tương giữa hàng linh mục và giáo dân cho ngày một thắm thiết hơn, như mối keo sơn gắn bó mọi thành phần Giáo hội, giúp vuợt qua bao thăng trầm lịch sử, để hướng tới một tương lai xán lạn là cả chiên mẹ và chiên con vui vầy nằm nghỉ trên đồng cỏ xanh tươi bát ngát (Tv 23) mà Thiên Chúa đã ban tặng.
Vì thế, suy niệm Lời Chúa CN Chúa Chiên Lành, hướng lòng về Ơn gọi Đời sống Thánh Hiến, người Ki-tô hữu hãy chạy đến với Đức Mẹ hiệp dâng lời cầu nguyện: “Lạy Nữ Trinh Thăm Viếng, chúng con trao phó những người tận hiến cho Mẹ để họ biết mau mắn tìm gặp những người lâm cảnh khốn cùng để mang lại sự trợ giúp và nhất là để mang Chúa Giê-su đến. Xin Mẹ dạy họ biết công bố những kỳ công Thiên Chúa đang thực hiện trong thế giới ngõ hầu muôn dân đều ca ngợi danh Người. Xin nâng đỡ họ trong những công tác phục vụ người nghèo khó, kẻ đói ăn, người thất vọng, kẻ hèn mọn và hết mọi người đang thành tâm tìm kiếm Con của Mẹ.” (Tông huấn “Đời Sống Thánh Hiến – Vita Consecrata”, số 112). Ước được như vậy.
Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Ðức Ki-tô, vị Mục Tử oai hùng của chúng con, đã khải hoàn tiến vào thiên quốc; xin cho chúng con là đoàn chiên hèn mọn cũng được theo gót Người vào chung hưởng hạnh phúc vô biên. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ, CN IV/PS). Cúi xin Mẹ Maria Cực Thánh là người nữ trẻ sống ẩn dật (obscurity), đã nghe, đã đón nhận và trải nghiệm Ngôi Lời đã trở nên người phàm, bảo vệ chúng ta. Và xin Mẹ luôn đồng hành trên bước đường đời của chúng ta. (Sứ điệp “Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi 2018”).
JM. Lam Thy ĐVD.
- Loại bài viết:
- Thể loại khác: