Nếu, nếu một ngày không có em
Chuyện Phiếm đọc trong tuần 26 Thường niên năm B 30-9-2018
“Nếu, nếu một ngày không có em”
Thì niềm cô đơn dài như năm tháng
Như mùa thu chết như lá thu rơi.”
(Khánh Băng – Nếu Một Ngày)
(1Côrinthô 13: 3-8)
Cứ coi là thế đi. Một ngày mà không có Em hoặc có Anh, thì ngày ấy sẽ chẳng là gì hết. Huống hồ, là tình yêu. Một ngày như thế, há nào như “mùa thu chết” hoặc cũng chỉ như ”lá thu rơi”, thôi. Lá thu rơi ngày ấy, như tác giả nhạc bản “nếu một ngày” lại diễn tả thêm chữ “nếu” đầy tiếc nuối, mà rằng:
“Nếu, nếu ngày ấy mình đừng quen nhau
Thì ngày nay có đâu buồn đau
Những khi mình xa nhau có đâu buồn đau
Nhớ, nhớ một chiều em đến thăm
Ngoài trời mưa trời mưa không dứt
Con đường trơn ướt em đến thăm tôi
Nhớ, nhớ ngày ấy mình cầm tay nhau
Nhìn hạt mưa ướt mi
Ngày sau sẽ không còn mưa rơi, sẽ không còn mưa rơi
Thôi kỷ niệm ấy xin trả cho người
Vì ngày mai tôi sẽ xa rời kỷ niệm, đành xa rời mãi.
Trên, trên con đường sóng gió ra đi.
Vì làm trai tôi đành lỗi hẹn.
Những niềm tin sẽ không xa rời, sẽ không xa rời.
Nếu, nếu một ngày không có tôi.
Thì người yêu ơi đừng quên tôi nhé.
Xin đừng giận dỗi, xin hiểu cho tôi.
Nếu, nếu ngày ấy mình đừng yêu nhau
Thì ngày nay có đâu buồn đau
Những khi mình xa nhau có đâu buồn đau.”
(Khánh Băng – bđd)
“Có đâu buồn đau”, lại cũng giống như trường-hợp của đấng bậc vị vọng nọ ở trời Tây, rất Nam Mỹ, từng thổ lộ về chuyện riêng tư của “ngài”, rằng:
Ngài linh mục người Brazil, Lm Antoine Teixeira đã có thư gửi Đức Phanxicô những lời sau đây:
15 Tháng Chín, 2018
Kính gửi Đức Giáo hoàng Phanxicô,
Quả thật, ngài có lỗi!
Đức Thánh cha có lỗi vì là một con người và không phải là một thiên thần! Đức Thánh Cha có lỗi vì khiêm tốn chấp nhận rằng mình đã sai lầm và cầu xin sự tha thứ cho chính mình và cho cả chúng con nữa. Trong khi điều này đối với nhiều người lại không thể chấp nhận được.
Đức Thánh Cha có lỗi bởi vì ngài không muốn làm một vị thẩm phán, một con người của luật lệ, nhưng là một mẫu gương và nhân chứng của lòng thương xót.
Đức Thánh Cha có lỗi vì đã từ bỏ truyền thống sống trong cung điện và chọn cuộc sống như những người bình thường.
Đức Thánh Cha có lỗi vì đã khước từ sự xa hoa của [Vương cung Thánh đường] Thánh Gioan Latêranô và ưa thích viếng thăm sự nghèo khổ nơi những nhà tù, trại trẻ mồ côi, bệnh viện, vv.
Đức Thánh Cha thật có lỗi! Đức Thánh cha ngừng hôn những đôi chân thơm tho của các vị hồng y, nhưng lại hôn bàn chân “bẩn thỉu” của những phạm nhân, phụ nữ, bệnh nhân, những tín đồ thuộc các tôn giáo khác, và những người “khác biệt”!
Đức Thánh Cha đáng bị lên án vì đã mở cửa đón nhận những người tị nạn, và bởi trước những vấn đề đau buồn cần được giải đáp, ngài chỉ trả lời một cách đơn giản: “Tôi là ai mà dám phán xét?”
Đức Thánh Cha đáng bị đày đọa vì thừa nhận sự yếu đuối của mình bằng cách xin chúng con cầu nguyện cho ngài, trong khi nhiều người yêu cầu Đức Thánh Cha phải giáo điều, bất khoan dung, và quan liêu.
Kính thưa Đức Thánh Cha, ngài bị quy kết cho thật nhiều thứ tội, như “những phường phản bội,” “hạng bị dứt phép thông công,” và “kẻ lai căng,” những người nhờ Đức Thánh Cha đã tái khám phá khuôn mặt xinh đẹp của Chúa Kitô đầy dịu dàng và thương xót.
Đức Thánh Cha có lỗi vì đã chỉ ra bản chất thực của sự việc và không ngừng nhắc nhở các giám mục rằng họ không phải là những mục tử ở sân bay, nhưng phải mang lấy “mùi chiên của họ.”
Đức Thánh Cha có lỗi vì đã xé toạc những trang sử bất khoan dung và thứ luân lý khô khan, tàn nhẫn, và ban tặng chúng con vẻ đẹp của lòng từ bi, nhân hậu và sự chân thành.
Đức Thánh Cha có lỗi vì đã mở mắt chúng con, những người [tự cho mình] thông minh và lý lẽ, nhất là con mắt của trái tim.
Đức Thánh Cha có lỗi vì muốn mang lấy thập giá của Giáo Hội thay vì mua vui cho những ánh mắt, bàng quan trước những nỗi đau và nước mắt của nhân loại thời đại chúng ta.
Đức Thánh Cha có lỗi vì không chịu đựng những tội ác ghê tởm nhân danh Thiên Chúa và những người rao giảng về Chúa nhưng lại sống đối địch với Ngài.
Đức Thánh Cha có lỗi vì do lòng thương xót, dám tìm kiếm sự thật và công lý, thay vì thinh lặng, giấu giếm, giảm thiểu hoặc bỏ qua.
Đức Thánh Cha có lỗi vì không muốn một Giáo Hội của đặc quyền, lợi ích, và vinh quang, và dạy cho chúng con sức mạnh của việc phục vụ, sự giàu có của việc rửa chân, và sự vĩ đại của tinh thần đơn sơ.
Đức Giáo hoàng Phanxicô, hãy để người ta đổ lỗi cho ngài những “tội ác” này. Đức Thánh Cha biết rằng bên cạnh ngài là vô số những anh chị em nam nữ không phải là thiên thần như ngài, nhưng là những người yếu đuối, những tội nhân, những người hy vọng Chúa Kitô gìn giữ chúng ta và cho chúng ta.
Đức Thánh Cha nên nhớ rằng có một làn sóng rất lớn của những tâm hồn luôn cầu nguyện cho Ngài mọi giây phút; vì Đức Thánh Cha, họ sẵn sàng mạo hiểm cả mạng sống mình. Họ bước theo Đức Thánh Cha như đoàn chiên tin tưởng vào mục tử của họ.
Chính Đức Kitô đã ủy thác nơi Đức Thánh Cha sứ mệnh chèo lái “con thuyền” Hội Thánh. Ngài sẽ ban thêm sức mạnh cho Đức Thánh Cha theo đuổi con đường “tội lỗi” này, con đường đã được thực hiện thật tốt trên thế giới và trong Giáo Hội.
Kính thưa Đức Thánh Cha, cảm ơn ngài đã trở nên “tội lỗi” để làm cho Hội Thánh nên xinh đẹp như mong ước của Chúa Giêsu.” (Lm. GB. Cao Xuân Hưng, Gp. Vinh biên dịch từ bản tiếng Anh, Nguồn: http://www.cbcplaiko.org/2018/09/13/from-a-priest-in-brazil-to-the-pope/)
Chuyện đời thường hoặc riêng tư nhà Đạo của một linh mục, cũng na ná hơi bị giống chuyện của người ngoài, ở đời thường. Nói na ná, là bởi nó chỉ giống đôi chút khía cạnh nào đó, rất nho nhỏ. Na ná, như câu truyện kể cũng rất nhẹ như bên dưới:
“Truyện rằng:
Anh nọ có lần được dịp nói khoác:
–Tôi được thấy có nhiều cái lạ lắm, nhưng lạ nhất là có một chiếc thuyền, dài không lấy gì mà đo cho xiết, có người thuở hai mươi tuổi đứng ở đằng mũi bắt đầu đi ra đằng lái, đi đến giữa cột buồm thì đã già, râu tóc bạc phơ, cứ thế đi, đến chết vẫn chưa tới lái. Trong làng cũng có một anh nói khoác nổi tiếng, nghe vậy liền kể ngay một câu chuyện:
–Như thế đã lấy gì làm lạ! Tôi đi rừng thấy có một cây cao ghê gớm. Có một con chim đậu trên cành cây ấy, đánh rơi một hạt đa. Hạt đa rơi xuống lưng chừng gặp mưa, gặp bụi rồi nảy mầm, đâm rễ thành cây đa. Cây đa lớn lên, sinh hoa, kết quả, hạt đa ở cây đa đó lại rơi vãi ra, đâm chồi, nẩy lộc thành nhiều cây đa con, đa con cũng như cây đa mẹ lớn lên, sinh hoa kết quả, lại nẩy ra hàng đàn cây đa cháu. Cứ thế mãi cho đến khi rơi tới đất thì đã bảy đời tất cả.
Anh đi xa về, nghe thế gân cổ lên cãi:
–Làm gì có cây cao thế! Chả ai tin được.
Anh kia cười ranh mãnh:
–Ấy không có cây cao như thế thì lấy đâu ra gỗ mà đóng chiếc thuyền của anh? (Truyện kể rút từ điện thư vi tính, mới đây thôi.)
Truyện vui vi tính, thật ra, nhiều lúc cũng chẳng ăn nhập đề tài được bàn luận hoặc kể lể. Thế nhưng, đã gọi là truyện kể để minh-họa đề tài mình đang nói hoặc sắp nói, thì “giữa hai hàng chữ” vẫn có ý-tưởng sao đó, có thể xảy ra ngay ở đây vào một lúc, giống thế thôi. Thật ra thì, có kể truyện vui, cũng chỉ cốt để đề tài triết-lý/thần-học được dễ chịu khi người kể cứ bỏ thì giờ ra mà tìm kiếm.
Thế đó, còn là tâm-trạng của bần đạo bầy tôi đây, hôm nay, những muốn đề-cập đến một thứ phiếm luận đạo đời, rất khô khan, thôi. Kể rồi, nay mời bạn/mời tôi, ta trở về với ca-từ nhạc-bản làm nền ở trên mà đi vào đoạn kết, cho bớt phiền. Ca-từ lại cứ hát những lời rằng:
“Nếu, nếu một ngày không có tôi
Thì người yêu ơi đừng quên tôi nhé
Xin đừng giận dỗi, xin hiểu cho tôi
Nếu, nếu ngày ấy mình đừng yêu nhau
Thì ngày nay có đâu buồn đau
Những khi mình xa nhau có đâu buồn đau.”
(Khánh Băng – bđd)
“Một ngày, không có tôi”, và cả những người anh, người chị ở thế-trần này, lại sẽ giống như tình-huống rất đạo/đời, mà thôi. Tình-huống những một ngày như thế ấy, còn là và vẫn là những tình và huống rất căn-cơ như lời lẽ bậc thánh hiền từng thổ-lộ hôm trước, nay ta nghe lại mà rằng:
“Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp ra mà bố thí,
hay nộp cả thân xác mình để chịu thiêu đốt,
mà không có tình mến thương,
thì cũng chẳng ích lợi gì cho tôi.
Thương yêu, mến mộ luôn nhẫn nhục, hiền hậu,
không ghen tương,
không vênh vang,
không tự đắc,
không làm điều bất chính,
không tìm tư lợi,
không nóng giận,
không nuôi hận thù,
không mừng khi thấy sự gian ác,
nhưng vui khi thấy điều chân thật.
Thương yêu, mến mộ tha thứ tất cả,
tin tưởng tất cả,
hy vọng tất cả,
chịu đựng tất cả.
Thương yêu, mến mộ như thế
không bao giờ lại mất đi.”
(1Côrinthô 13: 3-8)
“Không thể mất được”, đó là lời quả quyết như “đinh đóng cột”. Thứ quả quyết mà cả tôi lẫn bạn, cũng như mọi người vẫn cứ đưa ra cho mọi người biết, để còn tin. Và, khi đã tin rồi, sẽ không còn gì để thắc mắc nữa.
Thế đó, là lời thề của tôi và của bạn, của hất mọi người trong tương-quan đằm thắm rất yêu thương. Như thói thường cuộc đời người, xưa nay vẫn hoàn thế.
Thế đó, còn là ước hẹn của muôn người. Trên đường đời.
Trần Ngọc Mười Hai
Và những ước hẹn
Có tự bao giờ
Và bây giờ.
- Loại bài viết:
- Thể loại khác: