Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Trời còn làm mưa vùi trên nỗi đau

 

 

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thánh năm C 14/4/2019

 

“Trời còn làm mưa vùi trên nỗi đau”
“Lời ru ấy mãi cho u sầu 
Bàn chân nuối tiếc thương lạc loài.”

(Ngô Thụy Miên – Mắt Thu)

 

(Mt 13: 55)

Mưa vùi trên “Mắt Thu” của ai thế?  Cả người ngoài đời lẫn trong Đạo ư? Thế nhưng, trước khi đi vào những nhận định có hơi “trái khuấy” ở đây, lại xin mời bạn/mời tôi, ta nghe tiếp những ý-lực còn vương-vãi nơi nhạc bản, ở bên dưới:


“Trời còn làm mây buồn qua mắt ai 
Làm tan biến giấc mơ hoang đường 
Rồi buồn trôi theo giòng mưa xuống 
Giận hờn ngày xưa còn vương mắt em 
Làn môi thắm hết ru bao chiều 
Vùng ân ái chết trong mây hồng 
Một lần vào thu mình đang có nhau 
Hàng cây lá rớt trên mi thường 
Bàn tay trắng đan tình với tay 

Ngày đó khi một lần, một lần tiếng hát 
Đồng lõa đưa em vào vùng trời lấp lánh 
Bằng những cánh sao trời đầy đôi mắt ngước trìu mến. 
Anh, anh xa dần ngàn đời hoang vắng 
em đi về buồn chưng kẽ tóc 
bước chân này còn trọn kiếp hoang vu. 

Và rồi mùa thu về trong mắt em 
Hàng cây lá úa xanh xao nhiều 
Vòng tay khép kín đôi mi nồng 
Chuyện mình ngày xưa đành xin lãng quên 
Cuộc tình đã chết theo thu tàn 
Người về đấy xin chọn giấc mơ 

Và rồi mùa thu về trong mắt em 
Hàng cây lá úa xanh xao nhiều 
Vòng tay khép kín đôi mi nồng 
Chuyện mình ngày xưa đành xin lãng quên 
Cuộc tình đã chết theo thu tàn 
Người về đấy xin chọn giấc mơ 

Em có nhớ không một lần khi lá thu bay 
Là lần em đến thăm tôi 
Chung bước yêu đương hẹn hò 
Em có nhớ không một lần khi gió heo mây 
Mình ngồi đan giấc mơ say giận hờn sao vẫn chưa phai 

Một mình đi lang thang trong mùa đông rét mướt 
nghe bơ vơ hồn mình lạc loài 
Buồn dậy lên trên dung nhan gầy xanh cuả tuổi 
trên tháng ngày hằn vết đời mình 
Trời mùa Đông hong khô đi niềm tin sỏi đá 
trên đôi tay này mình còn gì 
Và giòng sông trôi đi vô tình mang tất cả 
cuộc đời này của người hay tôi.”

(Ngô Thụy Miên – bđd)

 

 

“Mùa Đông hong khô niềm tin sỏi đá” ư? Úi chà! Gì mà ghê gớm thế? Vậy thì, có gì làm ướt át niềm tin của người đi Đạo đâu nào?

 

Điểm khác biệt giữa người trong Đạo như thế còn hiểu được. Có chăng một khác-biệt giữa người vợ ở Nhật Bản và cả Trung quốc chứ? Dưới đây là câu trả lời, tuy chưa đủ:

 

“Nếu bạn đang có ý định lấy vợ người nước ngoài đặc biệt là vợ Nhật hoặc vợ Tàu thì hãy đọc ngay bài viết này nhé          

 

Bạn có bao giờ nghe đến câu “Ăn cơm Tàu , ở nhà Tây , lấy vợ Nhật” và thực sự hiểu ý nghĩa của câu này không? Hãy cùng Thăng Long OSC tìm hiểu những điểm thú vị từ trong câu nói thú vị này nhé .

 

Bài viết ở đây nói về 14 đặc điểm thú vị về vợ Nhật và vợ Tàu , có thể đây là suy nghĩ phiến diện của mình tôi bởi ở đâu cũng có người này, người kia . Nhưng tôi xin đính chính lại đây là bài viết nói về những đặc điểm chung chứ không phải tất cả ai cũng vậy nhé .

 

1. Phụ nữ Nhật Bản dạy con cái họ dũng cảm chiến đấu với những điều sai trái, dù cho có bị thua cuộc, họ vẫn thua trong danh dự tuyệt đối.
– Phụ nữ Trung Hoa dạy con cái trốn tránh, bỏ đi, phớt lờ những điều sai trái. Họ bảo rằng ông Trời sẽ trừng phạt chúng.

 

2. Phụ nữ Nhật Bản tin rằng Nhật Bản là đất nước tuyệt vời nhất.
– Phụ nữ Trung Hoa tin rằng cỏ nhà kế bên có thể xanh hơn.

 

3. Phụ nữ Nhật Bản thường tin rằng cưới một người ngoại quốc là một sự sỉ nhục.
– Phụ nữ Trung Hoa thường cảm thấy rằng cưới một người ngoại quốc là một vinh hạnh lớn lao.

 

4. Vợ Nhật thường hiền lành lúc bình thường, nhưng rất “hư” lúc lên giường.
– Nhiều người vợ Hoa hiền lành trên giường, nhưng rất “hư” khi không còn ở trên giường.

 

5. Đa số phụ nữ Nhật Bản có tính tình như một người phụ nữ đích thực, chiều chồng, hỗ trợ chồng, nuôi dạy con, có trách nhiệm.
– Trung Hoa là đất nước có nhiều cuộc tình 1 đêm và ngoại tình nhiều nhất thế giới.

 

6. Đa số phụ nữ Nhật Bản đều có lòng hiếu thảo, lễ phép, xem mẹ chồng như mẹ mình.
– Đa số phụ nữ Trung Hoa đều muốn mẹ chồng chết đi càng sớm càng tốt.

 

7. Vợ Nhật đối xử với chồng rất tử tế, và kính trọng. Trở về nhà sau một ngày làm việc mệt mỏi, người vợ sẽ nói, “Anh vất vả quá.”
– Vợ Hoa đối xử với chồng bằng những lời phàn nàn, mắng nhiếc. Trở về nhà sau một ngày làm việc mệt mỏi, người vợ sẽ hét, “Ông đi đâu giờ này mới về!”

 

8. Đa số con gái Nhật Bản sẽ chọn một người con trai cỡ tuổi mình để cưới và xây dựng cuộc đời mình với anh ta.
– Những cô gái trẻ người Hoa sẽ luôn tìm một ông già giàu có, và không màng gì đến chuyện mình có là người vợ thứ mấy của ông ta.

 

9. Mẹ Nhật Bổn dạy con gái họ biết chăm sóc chồng, và luôn kính trọng bố mẹ chồng.
– Mẹ Trung Hoa dạy con gái họ rằng phải luôn kiểm soát chặt chẽ tiền bạc của cải của chồng.

 

10. Phụ nữ Nhật Bản có thể chịu được một người nghèo, những tuyệt đối không chịu được một người đàn ông hèn nhát, yếu đuối.
– Phụ nữ Trung Hoa thì ngược lại.

 

11. Phụ nữ Nhật Bản cho rằng những người đàn ông nam tính là những người hấp dẫn nhất.
– Phụ nữ Trung Hoa cho rằng những người đàn ông nam tính là những kẻ độc tài trưởng giả.

 

12. Đa số phụ nữ Nhật Bản đều rất khoan dung với chuyện chồng mình thiếu chung thủy.
– Đa số phụ nữ Trung Hoa đều rất khoan dung với chuyện chính mình thiếu chung thủy.

 

13. Phụ nữ Nhật Bản hầu như không bao giờ nói xấu đàn ông Nhật trước đám đông hay trên truyền thông.
– Phụ nữ Trung Hoa luôn luôn lớn tiếng chửi bới, chỉ trích đàn ông Hoa dưới nhiều hình thức.

 

14. Những lời nói đầu tiên của một người phụ nữ Nhật Bản trong đêm tân hôn là: “Nếu em không chăm sóc anh được tốt đêm nay, hãy bỏ qua cho em nhé.”
– Những lời nói đầu tiên của một người phụ nữ Trung Hoa trong đêm tân hôn là: “Nhanh lên đi, rồi còn đếm tiền xem mình kiếm được bao nhiêu nữa.”

 

Mỗi phụ nữ có tính cách khác nhau, phụ nữ mỗi nước cũng khác nhau vì thế các bạn nam nên tìm hiểu kỹ trước khi quyết định kết hôn với con gái Nhật hoặc Tàu nhé

 

Có câu hỏi khác, lại cứ bảo: Khác biệt trên có thấy rõ ở nơi khác, như nhà đạo? Trả lời cho câu hỏi không mấy dễ dàng này, đề nghị bạn đề nghị tôi, ta đi vào mục hỏi đáp của đấng bậc vị vọng ở Sydney, có những lời như sau:

 

“Rất nhiều bản văn ngoài Kinh thánh nói về Đức Giêsu, đã hợp-lực với thánh kinh nói về Ngài. Một số bài viết sớm nhất hồi thế kỷ thứ nhất do sử-gia Do-thái-giáo là Flavius Josephus để lại trong lịch sử Đạo Chúa. Sử gia Josephus sinh năm 37 sau Công nguyên vốn là thượng tế và là người Pharisêu đã hoàn tất 4 tác-phẩm vào cuối thế kỷ này. Nhưng, công-trình nhiều tham-vọng nhất của ông lại xuất hiện vào năm 93 thời đầu có tựa đề là Thời Cổ Sử, một loại dã sử của người Do-thái-giáo do ông dựng.

 

Trong cuốn này, ông mô tả việc thượng-tế Ananias đã tận-dụng cái chết của tổng trấn La Mã tên là Festus, cả hai đều được đề cập ở Tân Ước để tuyên án chết cho thánh Giacôbê tông-đồ rồi bảo: “Ông triệu tập một Đại Công Nghị rồi truyền đem ông Giacôbê, em trai của Đức Giêsu và một số môn-đồ khác ra trình-diện. Lúc đó, ông ta kết tội các ngài đã vi-phạm luật-lệ và truyền lệnh đem các ngài đi ném đá cho đến chết.” (X. The Antiquities đoạn 20, câu 200)

 

Các chi tiết trên rút từ câu chuyện do sử gia Do-thái-giáo cung-cấp, lại cũng phù-hợp với những gì được viết ở Tân Ước rồi truyền lại cho chúng ta đến ngày nay. Quả thật, ông Giacôbê Hậu là em trai của Chúa như Tin Mừng thánh Mátthêu đoạn 13 câu 55 có trình-thuật. Và, bởi ông là người thân thuộc của Chúa, nên sử-gia Eusêbius và Hêgêsippus mới cho rằng ngài bị người Do-thái-giáo giết hại vào mùa Xuân năm 62.

 

Một đoạn khác, sử gia Josephus lại cũng qui về Đức Giêsu rõ hơn “Cổ Sử” trong đó có ghi rõ là: vào thời này, có ông Giêsu là nhà thông-thái đã xuất-hiện. Quả đúng như lời họ vẫn coi Ngài là người như thế do bởi Ngài là Đấng tạo nhiều kỳ-tích đáng kinh-ngạc và là Bậc Thày Dạy của những người công-nhận sự thật, cách vui vẻ. Ngài đã thắng nhiều người Do-thái-giáo và Hy-Lạp. Quả, Ngài là Đấng Kitô đích-thực.

 

Khi Philatô thấy những người có địa-vị cao sang trong Đạo đòi treo Ngài lên thập-giá, tức: những người, ngay từ đầu, đã yêu thương Ngài hết mình, lại thương yêu Ngài khôn kể xiết và không ngừng yêu Ngài mãi mãi. Ngày thứ ba, Ngài đã xuất-hiện với họ hầu tái-lập sự sống như các ngôn-sứ khi xưa từng nói trước nhiều việc về Ngài. Sau đó, mọi người lại gọi những kẻ tin vào Ngài là Kitô-hữu, tức: “người-của-Chúa” người-thuộc-về-Đức Kitô mãi đến hôm nay, trước sau như một.” (X. sđd đoạn 18 câu 63-64).

 

Thời Khai Sáng ở thế kỷ thứ 18, nhiều người lại đặt vần-đề về tính xác-thực của bản văn nói trên. Nhưng hôm nay, các nhà nghiên-cứu thần-học trong Đạo của Chúa cũng như Do-thái-giáo đã đồng-thuận với nhau về tính xác-thực của bản văn trên, dù có nhiều điều do các vị sao chép Kinh thánh đã thêm thắt vào trong đó, rất nhiều điều.

 

Chẳng hạn như, câu nói “Ngài chính là Đức Kitô” có thể là do Kitô-hữu thời sau này thêm thắt vào cho rộng nghĩa. Tuy nhiên, ở đây ta thấy nhiều bản văn ngoài Kinh thánh cũng nói về Đức Giêsu ngay từ thế kỷ đầu rồi. Ngoài ra, cũng có nhiều văn bản khác quan trọng không kém được rút từ nguồn văn do sử-gia Tacitus người La Mã viết ra.

 

Trong cuốn Annals xuất-hiện năm 115 sau Công nguyên, tác-giả nêu lý do bảo rằng: sở dĩ bạo-chúa Nêrô thời đó giết hại các Kitô-hữu là để đánh bạt mọi ngờ vực cho rằng chính ông ta đã ra lệnh nổi lửa đốt thành La Mã năm 64: “Bạo-chúa Nêrô đã trói buộc và kết tội Kitô-hữu từng bị dân chúng ghen ghét nên mới cho rằng chính họ từng hành-hạ người cùng đinh/thấp cổ bé họng, ở trong dân.

 

Thời Tiberius trị vì, danh xưng “Kitô” từ đó xuất-hiện nên đã gánh chịu mọi hình-phạt cực kỳ ghê gớm dưới trướng quan tổng trấn Pontiô Philatô. Và, thêm một dị-đoan tai-hại khác cũng bị kềm chế một thời-gian dài, nhưng sau đó lại bộc-phát dữ dội, không chỉ nội nhật trong vùng Giuđêa mà thôi, nhưng cả ở Rôma nữa (Annals 15: 44).

 

Thêm nữa, ở đây có một sử-gia khác người La-Mã cũng qui về cái chết của Đức Kitô ngay từ thế-kỷ đầu. Ngoài ông ra, còn có sử-gia rất “tầm cỡ” là Pliny Trẻ, tức quan toàn quyền thời bấy giờ từng được giao-phó trọng-trách trông coi xứ Bithynia, nay là nước Thổ Nhĩ Kỳ bây giờ. Pliny Trẻ là cháu của Pliny Già, một học-giả bách-khoa chết vào năm 79 thoạt vào lúc núi lửa Vesuvius bộc phá thành Naples, nước Ý.

 

Trong thư gửi Hoàng đế Trajan năm 111, ông có xin Hoàng-đế cho biết ý-kiến về việc hành-hạ người đi Đạo như thế là đúng hay sai. Ông còn viết, là: người đi Đạo cam-quyết rằng các lỗi lầm cộng với tội vạ này khác đều không có gì quan-trọng.

 

Nhóm người này chỉ hội họp vào lúc trước khi mặt trời mọc vào một ngày nhất-định trong tháng mà thôi. Và, họ cũng chỉ họp nhau hát những bài vịnh ca hầu vinh danh Đấng Kitô của họ là Đức Chúa, mà thôi. Họ thắt chặt tình thân thương với nhau bằng lời thề hứa, không nhằm mục tiêu bất chấp luật-lệ, nhưng chỉ cốt xa lánh nạn trộm cắp, cướp bóc và ngoại tình, thôi.” (Xem Thư trên đoạn 10 câu 96).

 

Dựa vào tài liệu kể trên cùng các văn-bản khác, điều này có nghĩa: chẳng có gì để ta phải thắc mắc hoặc nghi-nan về sự hiện-hữu của Đức Giêsu cả.”  (X. Lm John Flader, History’s evidence for Jesus, The Catholic Weekly ngày 31/12/18 tr.17)

 

Chứng cứ lịch sử kể về Đức Giêsu, lâu nay được các đấng vị vọng trích dẫn, là trích và dẫn từ đoạn Tin Mừng sau đây:

 

“Người về quê,

giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ,

khiến họ sửng sốt và nói:

Bởi đâu ông ta được khôn ngoan

và làm được những phép lạ như thế?

Ông không phải là con bác thợ sao?

Mẹ của ông không phải là bà Maria;

anh em của Ông

không phải là các ông Giacôbê, Giôxếp, Simôn và Giuđa sao?

Và chị em của Ông

không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao?

Vậy, bởi đâu Ông được như thế?"

Và họ vấp ngã vì Ngài.”

(Mt 13: 54-56)

 

Nếu chỉ căn cứ vào các chứng-cớ lịch sử về Đức Giêsu nói ở trên thôi, chưa chắc đã thuyết phục được mọi người; chí ít là người ngoài Đạo. Vậy nên, ta hãy đi vào vùng trời truyện kể để may ra  thấy được chút ánh sáng nào đó, rất khác biệt.

 

Thôi thì, đề nghị bạn/đề-nghị tôi, ta hãy nhìn vào truyện kể ở bên dưới, rồi tính sau.

 

“Truyện rằng,

 

“Nuôi con dưỡng già” là quy luật bất thành văn từ ngàn đời này. Tuy nhiên, ngày nay khi đọc tin tức, có rất nhiều bài viết về “người già vô gia cư, con tranh chấp tài sản của bố mẹ”, bạn có nghĩ rằng quan niệm “nuôi con dưỡng già” vẫn còn đúng?

 

Có một người mẹ đơn thân nuôi con, chồng bỏ đi từ sớm, cô ấy sống bằng nghề dạy học, với thu nhập khá khiêm tốn đã nuôi dưỡng con trai khôn lớn thành tài.

 

Lúc còn nhỏ, con trai rất ngoan ngoãn, vâng lời. Cô vất vả nuôi dạy con đến tuổi trưởng thành, và cậu con trai được đi Mỹ du học. Sau khi con trai tốt nghiệp đại học đã ở lại Mỹ làm việc, kiếm được khá nhiều tiền rồi mua nhà, và lấy vợ, sinh con, xây dựng một gia đình hạnh phúc đầm ấm.

 

Người mẹ già này, dự định sau khi nghỉ hưu sẽ đến Mỹ đoàn tụ cùng con trai và con dâu, hưởng phúc gia đình vui vẻ sum vầy. Chỉ ba tháng trước khi cô sắp nghỉ hưu, cô đã nhanh chóng viết một lá thư cho con trai, nói với con về nguyện vọng này.

 

Vào đêm trước ngày nghỉ hưu, cô nhận được thư hồi âm của con trai gửi từ Mỹ về, mở thư ra xem, trong thư có kèm một tấm ngân phiếu 30 ngàn đô la Mỹ.

 

Cô cảm thấy rất lạ, bởi vì từ trước đến giờ con trai không bao giờ gửi tiền về, cô vội vàng mở thư, bức thư viết rằng:

 

“Mẹ à, sau khi vợ chồng con cùng nhau bàn bạc, quyết định là không thể đón mẹ đến Mỹ sống chung được. Cứ cho rằng mẹ có công nuôi dưỡng con trước đây, toàn bộ chi phí đó, thì tính theo giá cả thị trường bây giờ khoảng 20 ngàn đô Mỹ. Nhưng con sẽ gửi thêm một chút, là tấm chi phiếu 30 ngàn đô này. Hy vọng từ nay về sau mẹ đừng viết thư cho con nữa, cũng đừng kể lể về những việc như thế này nữa.”

 

Sau khi người mẹ đọc xong lá thư này thì nước mắt đầm đìa. Cô lặng im một hồi lâu, thật khó mà chấp nhận được sự thật này. Nhưng với tấm lòng người mẹ bao la như biển cả, cô không trách con trai, chỉ cảm thấy tủi phận cho một đời góa bụa. Khi trẻ đơn độc nuôi con, bây giờ cần nơi nương tựa vẫn lẻ bóng, lòng cô đau như cắt!.

 

Sau đó, cô tìm đến cửa Phật, và bắt đầu học Phật Pháp. Học được một thời gian, cô cảm thấy tâm thái nhẹ nhõm, suy nghĩ cũng thông mọi chuyện. Cô dùng 30 ngàn đô đó để đi du lịch khắp thế giới, lần đầu tiên trong đời, cô được mở mang tầm mắt thấy được quang cảnh thế giới này thật đẹp biết bao.


Như cởi được tất cả mọi sân si, hờn giận, cô thanh thản viết cho con trai mình một bức thư, như sau:


“Con trai à, con muốn mẹ đừng viết thư cho con nữa, thế thì, cứ xem như lá thư này là bổ sung cho bức thư con đã gửi mẹ trước đây. Mẹ nhận tấm séc rồi, cũng đã dùng nó để thực hiện một chuyến du lịch vòng quanh thế giới.


Trong chuyến đi này, mẹ đột nhiên cảm thấy rằng nên cảm ơn con, cảm ơn con đã giúp mẹ hiểu thấu được mọi chuyện, có thể buông bỏ nhân tâm,  khiến mẹ nhận ra tình thân quyến, tình bạn và tình yêu của con người trên thế gian này đều không phải là vĩnh cửu, chỉ như như bèo dạt mây mà trôi, tất cả đều đang thay đổi từng ngày.


Nếu ngày hôm nay mẹ không thông suốt, vẫn còn ôm giữ bao nhiêu sân si, hờn giận, đau khổ  thì có thể một vài năm nữa, mẹ có lẽ sẽ không sống nổi. Sự tuyệt tình của con khiến mẹ ngộ được chữ “duyên” nơi trần gian này, chẳng phải duyên hợp lại tan đó sao! Tất cả đều là vô thường!  Mẹ cũng học được cách giữ tâm mình thanh tĩnh và ung dung tự tại. Mẹ đã không còn con cái nữa, tâm đã vô lo, nên mới có thể đi đến bất cứ nơi đâu mà tâm không mảy may vướng bận.”


“Thật đáng thương cho cái tâm của các bậc làm cha mẹ trên thế giới này”, vì họ luôn muốn điều tốt đẹp nhất cho con cái của mình, nhưng kết quả cuối cùng lại chưa hẳn là tốt nhất.


Có một câu nói rằng: “Nhà của cha mẹ là nhà của con cái, nhà của con cái không bao giờ là nhà của cha mẹ. Sinh con là nhiệm vụ, nuôi con là nghĩa vụ, nhưng dựa vào con là sai lầm.”


Mặc dù không phải tất cả con cái đều vô lương tâm như người con trai trong câu chuyện này. Nhưng những bậc làm cha mẹ nhất định không nên nghĩ rằng sẽ dựa vào con cái của mình. Chân thành mà nói, bạn hãy chỉ dựa vào chính bản thân mình. Con cháu nếu có hiếu thảo với bạn, thì đó cũng là phúc đức của bạn. Còn nếu chúng không hiếu thảo, thì bạn cũng không thể cưỡng cầu mà có được. Cách tốt nhất là hãy sớm lên kế hoạch “dưỡng già” ngay từ bây giờ, sẽ không bao giờ là quá muộn cả!.

 

 

Truyện kể hay chuyện để phiếm, tức “Chuyện Phiếm Đạo vào đời” trước sau như một, vẫn diễn tả mọi tình-huống trong đời, có lúc vui có lúc buồn. Bởi, đời người là như thế. Như một truyện kể, để đời, trong đời người.

 

 

Trần Ngọc Mười Hai

Và những truyện để kể cũng hệt như

Chuyện Phiếm Đạo/Đời

Mà thôi.