Cha ơi !
CHA ƠI!
Cha tôi, cụ Inhaxiô Đặng Phúc Lộc, Chúa gọi về lúc 4 giờ chiều ngày 12/12/2019. Người được sống là người, và là con Chúa 102 năm, để lại 102 con, cháu, chắt. Tôi nhớ mãi, lúc 3 giờ chiều hôm đó, cha Giuse Hà Trung Hoàng ghé thăm, và cùng gia đình tôi cầu nguyện đầu giờ. Cha tôi, dù đã rất mệt, Người vẫn cố gắng giơ tay làm Dấu Thánh Giá, nhưng chỉ giơ được nửa vời..Sau đó, lúc 3 giờ 30, nhóm chị em Lòng Chúa Thương Xót, làm giờ cầu nguyện. Cha tôi, mắt dù nhắm, nhưng tay vẫn lần theo từng hạt kinh. Khi chuỗi kinh hết, Người ra hiệu đọc lại. Thế rồi, chuỗi kinh dang dở, cả nhà phó linh hồn. Người tắt thở!
Cảm tạ Chúa, đã thương gọi Người về cách nhẹ nhàng, để lại dấu chỉ lành… Nhớ lại, trước 3 tuần, Người còn rước lễ tại nhà; và 1 tháng trước, Người còn được tôi, hoặc các cháu chiều chiều chở Honda dự lễ tại nhà thờ Ngọc Thạch; khi 100 tuổi, Người còn ngắm đứng…
Hồi tưởng lại, ngoài những giờ cầu nguyện chung trong gia đình, cha con còn có nhiều lần cầu nguyện cách đặc biệt. Lúc tôi 10 tuổi, tối tối Người dẫn 3 anh em tôi đến cầu nguyện trước tượng thánh Vicente, tượng được đặt trong trại tập trung bà con tị nạn ở Hải Phòng, trước khi xuống tàu di cư vào Nam. Bốn cha con cầu nguyện cho mẹ, và em gái tôi còn kẹt lại trong làng Bích Du. Năm 13 tuổi, tôi đang trọ học ở Sài Gòn, Người ghé thăm, rồi dẫn tôi thăm vườn sở thú, cùng đưa tôi đến Nhà Thờ Đức Bà cầu nguyện. Khi khôn lớn, sống chung, tứ đại đồng đường nhiều năm ấm êm, tôi nhớ mãi những lần Người thúc dục con cháu, cùng cầu nguyện trong đêm giao thừa: Từ Ngợi khen chúa, sám hối, tạ ơn, đến xin vâng…
Đã hơn ba tháng Người mất, nhớ Cha, tự nhiên, lời bài hát “Núi Thái Sơn Ngả Bóng Cuối Trời” vang vọng trong tôi: “Con cứ ngỡ rằng núi Thái Sơn không bao giờ ngả xuống…Còn dòng lệ thấm xuống hồn con”, lệ lại rơi! Trước đây, Cha tôi thường kể, Người có thói quen cầu nguyện từ bé, là được một thầy xứ già, có kiến thức uyên thâm, dạy bảo nhiều năm tại giáo xứ Bích Du, Thái Bình. Cha tôi được học nhiều môn, nhiều chương trình: Nào là chữ Hán, chữ Pháp, chữ Quốc Ngữ, học Toán, học Văn… đến học lẽ đạo…
Người còn kể, nhờ có chút chữ, nên được Cha xứ, và giáo dân cử làm Thư Ký trong xứ đạo, vào đúng năm1945. Năm, mà nạn đói đã cướp đi mạng sống hơn hai triệu người dân Miền Bắc một cách hãi hùng, bút mực nào kể xiết... Xác chết trong nhà, xác chết ngoài đồng, chết ngoài biển khơi…Người viết:
“Thảm thay em nhỏ mới sinh
Nào cháu có biết mẹ mình chết đâu
Lệ nhòa chan chứa đêm thâu
Ngậm vú mà chết gục đầu một bên”.
Để cứu đói, sáng sáng Cha xứ cùng Cha tôi, mỗi người đeo một bị khoảng 100 nắm cơm, đến nửa làng phía biển, phát mỗi gia đình, một nắm cơm “cầm hơi” không kể lương giáo; buổi chiều, Cha xứ và Cha tôi cũng mỗi người một bị cơm nắm, phát nửa làng phía trong ruộng. Nhờ những nắm cơm “cầm hơi” đó, mà dân làng Bích Du, lương giáo đỡ chết. Vì thế, mà làng Bích Du, lương giáo đoàn kết, yêu thương nhau hơn.
Có lẽ, chính nạn đói năm 1945, Cha tôi đã sống, và cận kề với cái chết, cùng đã trực tiếp tham gia cứu đói, nhất là nhiều năm được thầy xứ dạy bao điều sâu sắc về đạo, về đời… Những điều đó, cùng với tự học trong cuộc sống bao năm, đã hình thành trong Người, một tấm lòng bao dung; một tinh thần trách nhiệm; một gương hy sinh; một cách sống đơn giản, khiêm tốn nhưng cầu tiến. Đặc biệt là một Đức Tin vững vàng; Đức Cậy mạnh mẽ; Đức Mến nồng cháy…Điều đó, thể hiện ngay trong những năm tháng, Người sống với gia đình, họ hàng, xóm làng, cùng mọi người...
Thuở đương thời Cha tôi thường nói: “Một sự nhịn là chín sự lành”, hay “Lấy oán báo oán, oán oán trập trùng; lấy đức báo oán, oán đó tiêu tan”. Người đã thực hiện điều Người dạy chúng tôi trong cuộc sống của Người. Có lần người kể: “…giữa đêm khuya thanh vắng, chỉ có tiếng ếch nhái, bên ngọn đền dầu le lói, Cha nhớ đến “Chú”, Cha vừa khóc vừa cắt ngón tay lấy máu viết thư cho“Chú”, mong tìm sự hòa thuận. Và cùng với lời cầu nguyện thiết tha, sau nhiều năm, sự hòa thuận với“chú” đã đến, tạ ơn Chúa!...”.Thật cảm phục Cha!
Khi lớn khôn, 5 anh em thuở nào, nay đã thành ông nội, ông ngoại, bà nội, bà ngoại, có người là ông cố, bà cố, ông nọ, bà kia…Người rất lo lắng khi chúng tôi sống trong xã hội, không tin vào Thiên Chúa, chỉ tin vào con người và khoa học. Lại nữa, trong xã hội có quá nhiều thách đố, tệ nạn đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ, mà nổi cộm là: Nạn phá thai, sự thiếu trung thực, kiêu căng, tham nhũng; vật chất, danh vọng và lạc thú lên ngôi; giá tri tinh thần, đạo đức xuống thấp… tạo ra biết bao hệ lụy nghiêm trọng cho đời, cho đạo... Những điều đó, trái ngược với những điều Chúa dạy: “Có thì nói có, không thì nói không, nói thêm thắt điều gì là do ma quỉ” (Mt 5, 37). Và “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Trong môi trường xã hội như thế, Người đã nhắn nhủ con cháu:
“ …Khiêm tốn ngay lành mau học lấy
Ngổ nghịch gian tham kíp tránh ngay”
Vâng lời Người, con cháu quyết tâm sống trung thực, khiêm tốn, dù đang sinh sống trong ngành nghề có nhiều quyến rũ để kiếm danh lợi bất chính. Con cháu thường kể cho Người nghe những cố gắng giữ công bằng, trung thực trong nghề nghiệp. Có lần tôi kể với Người:
“…Hôm nay, trước hơn 400 Khách hàng của cháu, con đại diện cho Công ty đã nói:“…Nếu quí Đại lý và quí Khách hàng thấy Công ty của chúng tôi còn trung thực, thì quí vị ủng hộ, nếu Công ty hết trung thực, xin quí vị đừng ủng hộ…”.
Cha tôi rất mừng, khi thấy con cháu giữ được sự công bằng và đạo đức trong nghề nghiệp. Người vui mừng hơn, khi thấy con cháu tham gia việc đạo, việc đời và tích cực góp phần vào việc bác ái, từ thiện đạo, cũng như đời…Có lẽ, Người vui với con cháu, vì con cháu biết vâng lời Người, và cũng có lẽ vì thế, Chúa thương cho Người sống thọ đến 102 tuổi...
Cha tôi, một đời tin thờ Chúa. Người tận tụy, tích cực trong mọi công việc đạo cũng như đời. Người cầu tiến, nên từ một người phu ống, đã cố gắng học tập để trở thành bác tài công lái tàu… Người sống chân thành với mọi Người; cùng góp phần nhỏ làm thay đổi vài tập quán lạc hậu trong ma chay, cưới hỏi nơi làng Bích Du, quê tôi. Cha tôi, một tấm gương sáng cho con cháu về sống đạo… Nay Người mất, sao con cháu không buồn, không nhớ! Riêng tôi còn nhớ hơn vì:
“…Còn đâu những chiều vàng…
Con chở cha dự lễ
Và được đón cha về
Khi Thánh Lễ vừa xong
Còn đâu những chiều vàng
Cha ngồi cửa đợi con…”.
Và: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”, nay tôi biết hỏi ai!
Nhưng, tôi được ủi an, khi đọc lời Thánh Giáo Hoàng Phaolô II: “Được sống đến tuổi già là một ân huệ. Không phải vì tất cả mọi người sống đến tuổi này, nhưng vì trước hết, tuổi già cho chúng ta khả năng đánh giá quá khứ, được hiểu và sống mầu nhiệm phục sinh một cách sâu xa hơn, và được trở nên kho tàng quí báu cho Giáo Hội”. Rồi tôi vui khi Thánh Phanxicô assisi nói: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”; và chính Chúa đã hứa ban: “Ai kính sợ Thiên Chúa sẽ thấy cuộc đời kết thúc tốt đẹp” (Hc 1, 13); thế là, Núi Thái Sơn, cha tôi đã tìm về cội nguồn của sự sống vĩnh hằng.,.
Inhaxio Đặng Phúc Minh
- Tổng Hơp: