Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Tập San Hiệp Sống TH 04 2021

Tác giả: 
Lm Đan Vinh

 

 

 

TẬP SAN HIỆP SỐNG

  Tháng 04.2021

 

TƯ LIỆU HỌC TẬP CỦA HIỆP HỘI THÁNH MẪU

LƯU HÀNH NỘI BỘ

 

 

 

NỘI DUNG

                                             

TẬP SAN HIỆP SỐNG THÁNG 04/2021

 

I.THƯ LM GH TH 04/21: MẦU NHIỆM TRUYỀN TIN- BÀI HỌC XIN VÂNG VÀ PHỤC VỤ

 

II.HỌC SỐNG NHÂN BẢN TH 04/21: NHỮNG CỬ CHỈ ĐẸP TRONG CUỘC SỐNG.

 

III. XÂY DỰNG HẠNH PHÚC GĐ TH 04/21: PHƯƠNG CÁCH XÂY DỰNG MÁI ẤM GIA ĐÌNH.

 

IV.TƯ LIỆU HIỆP SỐNG TH 04/21: HSTM VỌNG PS.- HSTM CN 2 PS ABC.- HSTM CN 3 PS B.-

HSTM CN 4 PS B.

 

V.HUẤN LUYỆN H.TRƯỞG TH 04/21: HỆ THỐNG TỔ CHỨC HIỆP HỘI TM GIÁO XỨ.

 

VI.THƯ GIÃN TH 04/21: QUÁI QUỶ

 

VII.NHỎ TO HỮU ÍCH TH 04/21: BẢY LOẠI NƯỚC ÉP RAU CỦ QUẢ HỮU ÍCH.

 

VIII.SINH HOẠT HIỆP SỐNG THÁNG 04/2021:

 

A.THÔNG TIN LIÊN HỘI HHTM TH 04

B.SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN BÁC ÁI HHTM TH 04

C.SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN GIA ĐÌNH HHTM TH 04

D.SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN GIỚI TRẺ HHTM TH 04

 

 

  1. LÁ THƯ LM GIÁM HUẤN THÁNG 04/2021

 

MẦU NHIỆM TRUYỀN TIN - BÀI HỌC XIN VÂNG VÀ PHỤC VỤ

 

Ngày 25 tháng 03 là Lễ Truyền Tin, ngày Truyền Thống của Hiệp Hội Thánh Mẫu Quốc Tế. Nhân dịp này, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của biến cố Truyền Tin trong lịch sử cứu độ và trong tương quan với linh đạo của HHTM như sau :

 

I. Ý NGHĨA CỦA BIẾN CỐ TRUYỀN TIN TRONG LỊCH SỬ CỨU ĐỘ :

 

Truyền Tin là một biến cố quan trọng trong lịch sử cứu độ lòai người: Khi hiện ra với Trinh Nữ Ma-ri-a làng Na-da-rét, sứ thần Gáp-ri-en đã cho Ma-ri-a biết cô đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Sứ thần cũng giài thích cho Maria hiểu rằng: cô sẽ thụ thai hài nhi Cứu Thế mà vẫn còn đồng trinh nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, để từ nay được thuộc trọn về Chúa như một nữ tu khấn trọn. Sau khi biết rõ ý Chúa muốn, Ma-ri-a đã cúi đầu thưa xin vâng (x Lc 1,38). Ngay lúc đó nhờ ơn Thánh Thần tác động, cô Maria đã thụ thai một thai nhi và Chúa Cha đã sai Chúa Con xuống nhập vào thai nhi ấy, trở thành Đấng “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Như vậy lễ Truyền Tin là lễ kính mầu nhiệm Ngôi Hai xuống thế làm người.

 

Khi nghe sứ thần cho biết bà chị họ Ê-li-sa-bét của Maria tuy đã quá tuổi sinh nở, mà Thiên Chúa cũng cho cưu mang một thai nhi được 6 tháng, Đức Ma-ri-a liền vội vã lên đường đi thăm. Mẹ đến với bà Ê-li-sa-bét để chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho gia đình này. Khi nghe lời Maria chào thì thai nhi Gio-an đã nhảy mừng trong lòng bà Êlisabét (x Lc 1,41). Rồi Maria ở lại với bà chị để phục vụ bà ba tháng cuối, cho tới khi bà sinh con mới trở về Nadarét (x Lc 1,56).

 

II. LINH ĐẠO XIN VÂNG VÀ PHỤC VỤ CỦA HIỆP HỘI THÁNH MẪU:

 

Hiệp Hội Thánh Mẫu là một hội đòan Công Giáo Tiến Hành, được hình thành vào lễ Truyền Tin năm 1563 tại Rôma nước Italia, do sáng kiến của một linh mục dòng Tên là cha Giăng Lơni (Jean Leunis). Linh đạo của HHTM được tóm gọn như sau: Hội viên liên kết thành những cộng đòan nhỏ để giúp nhau sống Xin Vâng và Phục Vụ noi gương Chúa Giê-su và Mẹ Maria.

 

- XIN VÂNG: Hội viên luôn lắng nghe Lời Chúa, rồi suy niệm để tìm hiểu ý Chúa muốn và mau mắn thực thi ý Thiên Chúa như Chúa Giê-su (x. Mt 26,39) và Đức Ma-ri-a (x Lc 1,38).

 

- PHỤC VỤ: Hội viên còn khiêm nhường phục vụ tha nhân noi gương Chúa Giê-su, Đấng tuy là Thầy là Chúa mà sẵn sàng rửa chân cho môn đệ (x Ga 13,14-15), đồng thời cũng noi gương Mẹ Ma-ri-a, đưa thai nhi Giêsu đi thăm và phục vụ bà Êlisabét suốt ba tháng cho tới khi bà sinh con mới về lại Nadarét.

 

Chúc hội viên Hiệp Hội Thánh Mẫu luôn sống linh đạo “Xin Vâng và Phục Vụ” để trở nên môn đệ đích thực của Chúa Giê-su như Mẹ Ma-ri-a, hầu chu tòan sứ vụ tông đồ là đem Chúa đến với mọi người.

 

Nhà Thờ Thánh Mẫu ngày 22 tháng 03 năm 2021.

 

Lm GIÁM HUẤN HIỆP HỘI THÁNH MẪU

Đa-minh ĐINH-VĂN-VÃNG

II. HỌC SỐNG NHÂN BẢN THÁNG 04/2021

 

NHỮNG CỬ CHỈ ĐẸP TRONG CUỘC SỐNG

 

1. LỜI CHÚA : “Con người đến không đòi phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28).

 

2. CÂU CHUYỆN :

 

Trong tháng qua, tôi có dịp đi nghỉ cuối tuần tại Lái Thiêu tỉnh Bình Dương chung với mấy người bạn. Thay vì dùng xe hai bánh, chúng tôi cùng đi xe búyt cho an tòan, tránh mưa nắng, mà còn có tính kinh tế vì tiền mua vé xe chỉ vài ngàn. Trong chuyến đi này tôi đã được chứng kiến những cử chỉ không mấy tốt đẹp của một số bạn trẻ trên chuyến xe buýt như sau:

 

Thực vậy, mặc dù nhà xe đã có treo một tấm bảng “Xin nhường ghế cho người già, trẻ em và phụ nữ mang thai” ở phía đầu xe, vậy mà vẫn có một thanh niên thản nhiên ngồi ghế đang khi một cụ bà phải đứng bên cạnh! Cũng vậy, một thanh niên khác vẫn ngồi tỉnh bơ giữa nhiều bà nhiều cô phải đứng suốt quãng đường dài gần 30 cây số. Dọc đường, tôi thấy bác tài dừng lại đón một cụ bà khác lên xe. Bà đưa mắt nhìn lướt qua các hàng ghế mong tìm được một chỗ trống, nhưng mọi chỗ trên xe đều đã chật và không ai chịu nhường chỗ. Cuối cùng bà cụ đành phải rút dép để ngồi bệt lên dưới sàn xe. Bấy giờ một chị trung niên đã đứng dậy nhường ghế cho bà, rồi chị lần bước đến ngồi trên thùng máy phía cuối xe. Một anh thanh niên thấy vậy cũng noi gương đứng lên và đi về phía đầu xe đứng. Một anh khác ở hàng ghế sau cũng đứng dậy để nhường chỗ. Hai anh nhìn nhau mỉm cười, quên cả việc mời bà cụ ngồi vào ghế của mình. Ngay lúc đó, thật đáng tiếc, một thanh niên đứng gần bên vội bước lại giành chỗ. Rồi khi xe đã đi được hơn nửa đường, khi có người xuống trạm thì một người đàn ông đi nạng khập khễnh bước lên xe. Nhưng không một ai quan tâm nhường chỗ cho người bị què cụt này…

 

3. SUY NIỆM :

 

Trong cuộc sống thường ngày, nếu biết quan tâm đến người bên cạnh, chắc chắn chúng ta sẽ không thiếu những cơ hội thể hiện tinh thần bác ái phục vụ tha nhân bằng những cử chỉ đẹp như: nhặt một cái đinh trên đường để xe khác đi sau khỏi bị sì lốp giữa đường; nhặt một mảnh sành vứt vào thùng rác để tránh cho người khác khác khỏi dẫm đạp lên; dùng một cành cây để báo hiệu nắp ga bị bể; tránh cho xe khác phía sau khỏi bị sụt hầm; trợ giúp một người đang khiêng một vật nặng lên xe; gọi điện báo công an khi phát hiện có kẻ gian đang rình rập một nhà vắng chủ… Và còn rất nhiều cử chỉ đẹp khác mà chúng ta có thể làm để nói lên tình người, sẵn sàng dấn thân phục vụ tha nhân vô vụ lợi.

 

4. SINH HỌAT : 1) Bạn có thường tự nguyện giúp đỡ người khác khi thấy họ cần hay chỉ giúp khi được họ nhờ cậy ? 2) Bạn cảm thấy thế nào khi đang gặp khó khăn mà có người khác tự nguyện giúp đỡ ? 3) Một người hay tình nguyện phục vụ kẻ khác sẽ được những lợi ích nào cũng như có thể gặp những thiệt hại gì cho bản thân?

 

5. LỜI CẦU: Hát bài “Kinh Hòa Bình” để xin Chúa giúp chúng ta sẵn sàng đi bước trước phục vụ tha nhân vô vụ lợi.

 

LM ĐAN VINH - HHTM

 

III. MỤC VỤ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH THÁNG 04/2021

 

PHƯƠNG CÁCH XÂY DỰNG MÁI ẤM GIA ĐÌNH

 

1. LỜI CHÚA: Thánh Phaolô đã khuyên về đời sống gia đình như sau: “Hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo.” (Cl 3,12-14).

 

2. SUY NIỆM:

 

Có nhiều điểm làm nền tảng gia đình, nhưng chúng ta có thể coi các điểm then chốt dưới đây là “chìa khóa” để tạo lập gia đình hạnh phúc:

 

1) ÂN CẦN LỄ ĐỘ:

 

Nói năng cộc lốc, thiếu lễ độ hoặc cư xử thô lỗ sẽ làm mất thiện cảm, làm các thành viên gia đình buồn bực thất vọng. Nên tỏ thái độ ân cần, cởi mở, hòa đồng, thương yêu và chân thành. Những điều tưởng chừng nhỏ bé đó mà lại có tầm quan trọng đáng kể. Tác dụng lời “cảm ơn” hay “làm ơn…” rất mạnh. Là con, là cháu nên xưng mình là “con” với các bậc trên (bác, chú, cậu, mợ, cô, dì,…) để tỏ sự gần gũi, thân mật. Là vợ chồng nên xưng với nhau là “anh, em” và cũng nên “vâng, dạ” cho ngọt ngào. Đừng “quen quá hóa lờn”. Lòng yêu thương chân thành sẽ tự nhiên biểu lộ ra ngoài qua thái độ ân cần và lời nói lễ độ.

 

2) PHỤC THIỆN SỬA LỖI:

 

Nhân vô thập toàn. Không ai mà không có lần sai lỗi lầm lỡ. Trường hợp ấy thì chỉ cần một câu “xin lỗi” cũng chứng tỏ sự chân thành phục thiện. Bề dưới xin lỗi bề trên đã vậy mà bề trên cũng cần phải xin lỗi bề dưới. Cha mẹ và con cái, anh chị em, vợ chồng,… đều cần phải chân thành xin lỗi nhau để làm hòa với nhau. Hối hận và tha thứ là việc cần thiết cần phải làm ngay giữa các thành viên trong gia đình.

 

3) NHẪN NHỊN THA THỨ:

 

Hãy nhẫn nhịn chịu đựng và tha thứ cho nhau. Đó là một “phép màu” vì sẽ tạo ra kết quả tốt đẹp trong quan hệ giưa hai bên. Để có một gia đình hạnh phúc, đúng nghĩa “tổ ấm” mỗi thành viên đều phải nỗ lực không ngừng, nhất là qua cách ứng xử và nói năng dịu dàng như người ta thường nói: “Nói ngọt lọt đến xương”.

 

4) CẢM THÔNG NÂNG ĐỠ:

 

Cần tránh thái độ nghi ngờ hoặc “dò xét” nhau nói xấu nhau. Đừng bao giờ “vạch áo cho người xem lưng. Hãy nhẹ nhàng sửa lỗi nhau. Chê trách người trong gia đình trước mặt người ngoài là tự làm xấu mình vì “Xấu chàng hổ ai?”. Nhưng bênh vực nhau cũng phải bênh vực cách hợp tình hợp lý chứ không cố tình “bao che”

 

5) GIỮ LỜI ĐÃ HỨA:

 

Lời hứa và giữ lời đã hứa đều quan trọng như nhau. “Lời hứa” sẽ làm cho tha nhân hy vọng. “Giữ lời hứa” sẽ làm cho người ta hài lòng và thêm tin tưởng. Đừng hứa suông và đừng hứa nếu không chắc có thể thực hiện được; cũng đừng nuốt lời đã hứa vì sẽ tự hạ giá trị của mình. Hứa thì quá dễ, nhưng giữ lời hứa lại rất khó.

 

3. LỜI CẦU:

 

Lạy Chúa. Chúa muốn các đôi vợ chồng phải xây dựng cho gia đình mình trở thành một tổ ấm hạnh phúc. Trong đó các thành viên là vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh em phải giữ những điều căn bản là: Ân cần lễ độ với nhau, chân thành nhận lỗi khi sai lỗi, luôn nhẫn nhịn chịu đựng nhau, cảm thông nâng đỡ và luôn giữ những điều đã hứa với nhau… Nhờ đó chúng con sẽ có một gia đình hòa hợp hạnh phúc ở đời này, là dấu tiên báo chúng con sẽ được hưởng hạnh phúc muôn đời trên thiên đàng đời sau.- AMEN.

 

LM ĐAN VINH - HHTM

 

******************

 

IV. TƯ LIỆU HỌC SỐNG LỜI CHÚA THÁNG 04/2021

 

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

 

ĐÊM VỌNG PHỤC SINH B

Cv 10,34.37-43 ; Cl 3,1-4 ; Mc 16,1-8

CÙNG CHÚA CHIẾN THẮNG TỬ THẦN

 

  1. HỌC LỜI CHÚA
  2.  

1. TIN MỪNG: Mc 16,1-8.

 

(1) Vừa hết ngày sa-bát, bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà MA-RI-A mẹ ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su. (2) Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ. (3) Các bà bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây? (4) Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm. (5) Vào trong mộ, các bà thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng ; các bà hoảng sợ. (6) Nhưng người thanh niên liền nói: “Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-ret, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã chỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này!”. (7) Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng: Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông. (8) Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai vì sợ quá.

 

2. Ý CHÍNH:

 

  1. Tin Mừng tường thuật mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giê-su đã được thiên thần loan báo trước tiên cho ba người phụ nữ khi họ đi ra mồ tứ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần để xức thuốc thơm ướp xác Thầy. Thiên thần đã ra lệnh cho các bà phải trở về loan báo Tin Mừng ấy cho các môn đệ của Đức Giê-su và nhắn tin là họ hãy trở về xứ Ga-li-lê để gặp Người tại đó.

 

3. CHÚ THÍCH:

 

- C 1-2: + Vừa hết ngày Sa-bát: Nghĩa là lúc mặt trời lặn, vào lúc 6 giờ chiều ngày sa-bát, cuối ngày Thứ Bảy và bắt đầu ngày thứ nhất trong tuần. + Bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và bà sa-lô-mê: Vì có nhiều bà khác cùng tên Ma-ri-a, nên người ta thêm tên làng quê cũ để phân biệt nên gọi bà là Ma-ri-a Mác-đa-la. Trong Tin Mừng, Ma-ri-a Mác-đa-la là người bị 7 quỉ ám (x. Lc 8,2), nhưng không phải là phụ nữ tội lỗi đã xuất hiện tại nhà người Pha-ri-sêu (x. Lc 7,37-48). Bà là một trong mấy người đã đến viếng mộ trống (x. Ga 2,1; Mt 28,1; Mc 16,1; Lc 24,10). Bà đã đứng dưới chân thập giá Đức Giê-su (x. Mc 15,40), có mặt khi mai táng và đã quan sát nơi đã an táng Người (x. Mc 15,47). Cả 4 Tin Mừng đều thuật lại việc mấy phụ nữ đã đi viếng mộ Đức Giê-su. Riêng Ma-ri-a Mác-đa-la đã được cả bốn Tin Mừng nêu tên gọi, cho thấy uy tín và vai trò quan trọng của bà trong Hội Thánh sơ khai. + Mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su: Vì thời gian Đức Giê-su được môn đệ mai táng quá ngắn và được làm vội vã, nên mấy phụ nữ này đã phải mua thêm dầu thơm để xức lên thi hài của Người theo phong tục Do Thái. + Sáng tinh sương Ngày Thứ Nhất trong tuần: Sáng tinh sương khi mặt trời mới mọc của ngày Chúa Nhật, tức khoảng 6 giờ sáng.

 

- C 3-4: + Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?: Ngôi mộ an táng Đức Giê-su là ngôi mộ đục trong tảng đá lớn và được một tảng đá khác che lấp ngoài cửa mộ. + Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn qua một bên rồi: Tảng đá to che chắn cửa ngôi mộ đã được lăn sang một bên. Người lăn tảng đá không ai khác hơn là thiên thần đang ngồi trong mộ lúc đó.

 

- C 5-6: + Người thanh niên ngồi bên phải mặc áo dài trắng: Áo dài trắng cho thấy đây là một thiên thần. Vị này loan Tin Mừng Chúa phục sinh cho các bà, và trao sứ vụ loan báo tin ấy cho Phê-rô và các môn đệ khác.+ Người đã trỗi dậy rồi, không còn ở đây nữa: Đức Giê-su sống lại và thân xác Người đã biến đổi nên mới, có những đặc tính khác với thân xác khi chịu khổ nạn. Do đó, đừng tìm kiếm Người tại mồ của kẻ chết, vì Người đã sống lại vinh quang rồi. Từ đây, Người không lệ thuộc vào không gian và thời gian như một người phàm nữa.

 

- C 7-8: + Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng: Khi đi viếng mộ của Đức Giê-su ngay từ sáng sớm nhằm xức dầu thơm cho xác Đức Giê-su. Nhưng Người đã sống lại rồi, và thiên thần đã ra lệnh cho các bà phải đi báo tin vui phục sinh cho các môn đệ. Phê-rô được nêu tên vì ông đứng đầu Nhóm 12. + Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông: Vì trước đây có lần Đức Giê-su đã nói: “Sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em” (Mc 14,28). Ga-li-lê là miền đất mà dân Do thái sống lẫn lộn với các lương dân.

 

- HỎI: So sánh thân xác của Đức Giê-su sau khi sống lại vào sáng Chúa Nhật Phục Sinh với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn giống và khác nhau thế nào? Thân xác của các người được Đức Giê-su làm phép lạ cho hồi sinh như: Anh La-da-rô, người con trai bà góa thành Na-in, con gái ông Gia-ia… có giống với thân xác loài người được sống lại vào ngày tận thế không?

 

- ĐÁP:

 

+ Đức Giê-su sau khi sống lại vào ngày Chúa Nhật, cũng chính là Đức Giê-su đã chịu tử nạn vào chiều Thứ Sáu tuần thánh, như Người đã cho các môn đệ xem tay và cạnh sườn Người (x. Ga 20,20), cho ông Tô-ma xem dấu đinh ở bàn tay, cho ông xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào vết thương nơi cạnh sườn Người (x. Ga 20,25.27-29). Người cũng cho thấy Người không phải là ma vì có xương thịt mà các ông có thể nhìn xem và sờ thấy. Người còn ăn một khúc cá nướng trước sự chứng kiến của các ông (x Lc 24,38-43).

 

+ Nhưng thân xác của Chúa Giê-su Phục Sinh có những đặc tính mới, khác với thân xác của Người trước khi chịu tử nạn, đến nỗi Ma-ri-a Mác-đa-la gặp Chúa Phục Sinh hiện ra mà tưởng là người giữ vườn (x. Ga 20,15). Hai môn đệ làng Em-mau cùng đi và nói chuyện với Đức Giê-su trong nhiều giờ mà vẫn không nhận ra Người (x. Lc 24,16). Thân xác Chúa Phục Sinh có khả năng đi xuyên qua cửa nhà Tiệc Ly đóng kín để hiện ra với các tông đồ (x. Ga 20,19.26). Thân xác Người lúc ẩn lúc hiện (x. Lc 24,27.30-31). Chúa Phục Sinh cũng hiện diện ở khắp nơi nên dù không hiện diện cụ thể mà vẫn nghe được lời Tô-ma nói với các anh em môn đệ (x. Ga 20,27). Ngày nay Đức Giê-su Phục Sinh tuy đã được Chúa Cha tôn vinh, nhưng thân xác Người có đặc tính thiêng liêng, nên người ta không thể xác định Người đang ở nơi đâu (x. Lc 24,51 ; Pl 2, 9-11).

 

+ Thân xác của những người đã chết, được Đức Giê-su làm phép lạ hồi sinh như: ông La-da-rô chết được chôn trong mồ 4 ngày (x. Ga 11,43-44), con trai bà góa thành Na-in đang được khiêng đi chôn (x. Lc 7,14-15), con gái ông Gia-ia mới chết đang nằm trên giường (x. Mc 5,40-42). Những người này chỉ được Đức Giê-su cho phục hồi sự sống tự nhiên và sau đó lại bị chết một lần nữa. Còn mầu nhiệm kẻ chết sống lại trong ngày tận thế có những đặc tính giống như thân xác Đức Giê-su Phục Sinh. Người ta sẽ bước vào một cuộc sống mới vinh quang, không bị hủy diệt và luôn tràn đầy sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa.

 

  1. SỐNG LỜI CHÚA

 

1. LỜI CHÚA: “Đức Giê-su đã sống lại, không còn ở đây nữa” (Mc 16,6):

 

2. CÂU CHUYỆN:

 

1) ÁNH SÁNG PHỤC SINH SẼ XUA TAN BÓNG TỐI GIAN ÁC TỘI LỖI:

 

JOHN KELLER, một diễn giả nổi tiếng một hôm đang thuyết trình trước khoảng 100 ngàn người tại sân vận động Los Angeles bên Hoa Kỳ. Giữa buổi diễn thuyết ông bỗng dừng lại và nói: "Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này".

 

Đèn tắt, sân vận động chìm trong bóng tối dày đặc, ông John Keller nói tiếp: "Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm tôi đốt thì hãy kêu lớn lên: “Đã thấy!". Một que diêm được bật lên, cả sân vận động vang lên những tiếng hô: "Đã thấy!".

 

Sau khi đèn được bật sáng lên, ông John Keller giải thích: "Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy".

 

Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: "Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên!". Bỗng chốc cả sân vận động rực sáng.

 

Ông John Keller kết luận: "Nếu tất cả mọi người chúng ta hợp lực cùng nhau, sẽ có thể chiến thắng bóng tối sự dữ và oán thù bằng những đốm sáng của tình thương và lòng tốt của chúng ta".

 

Mỗi người là một cây đèn, cần phải được thắp sáng lên. Một ngọn đèn cháy sáng, rồi hai, rồi ba, rồi hàng trăm, hàng ngàn ngọn đèn cháy sáng, thế giới tối tăm này sẽ dần dần bớt tối đi. Nếu tất cả mọi người đều thắp sáng lên ngọn đèn tin yêu của mình, thì thế giới này sẽ bừng sáng lên.

 

Mỗi tín hữu chúng ta đều có cây đèn đức tin, nếu được cháy sáng đức cậy và đức mến, thì mỗi gia đình, cộng đoàn Hội Thánh, và cả thế giới sẽ rực sáng lên tình thương, niềm vui và ơn cứu độ như lời Chúa dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

 

2) CÂU CHUYỆN LỘT XÁC NÊN MỚI:

 

Vào một buổi trưa hè oi ả, nhà đạo diễn lừng danh tại Hô-li-út (hollywood) tên là SƠ-SIU ĐƠ MIU-Ơ (Cecil B. De Mille) đi hóng gió trên chiếc du thuyền ven bờ hồ thuộc tiểu bang Men (Maine). Đang chăm chú đọc sách, bỗng ông ngó xuống mặt hồ thì thấy một đàn cánh quýt nước đang tung tăng đùa giỡn trên mặt nước. Rồi một chú cánh quýt đã bỏ đàn leo lên mạn thuyền cạnh ghế ông đang ngồi, và nằm im như chết. Đơ Miu-ơ chăm chú nhìn con cánh quýt chừng một phút, rồi ông tiếp tục đọc sách. Ba giờ sau, Đơ Miu-ơ lại nhìn con cánh quýt kia và rất ngạc nhiên khi thấy dường như nó đã bị chết khô. Rồi bỗng chiếc mai của nó bị nứt ra làm đôi. Ông nhìn thấy có cái gì đó đùn lên từ kẽ nứt ấy. Trước tiên là chiếc đầu ươn ướt, rồi đến thân mình và mấy chiếc cánh cũng dần lộ ra. Cuối cùng một chú chuồn chuồn thật đẹp xuất hiện. Đơ Mi-ơ tiếp tục quan sát con chuồn chuồn. Ông thấy nó cử động đôi cánh, rồi từ từ bay lên. Nó bay lượn trên mặt nước, nơi có những con cánh quýt bạn nó đang nô đùa trên mặt nước, nhưng xem ra chúng không nhận ra con chuồn chuồn mới nhập bọn kia. Đơ Miu-ơ đưa ngón tay ra sờ nhẹ vào chiếc vỏ ngoài của con cánh quýt. Thì nó chỉ còn là cái xác nhẹ hều và ọp ẹp rỗng không như một ngôi mộ trống rỗng.

 

Ai trong chúng ta cũng thấy có sự giống nhau giữa câu chuyện lột xác của con cánh quýt, với sự Phục Sinh của Đức Giê-su: Như con cánh quýt đã bị chết khô trên mạn thuyền, thì Đức Giê-su cũng bị chết treo trên cây thập giá. Như con cánh quýt được biến hóa trở thành con chuồn chuồn nước trong thời gian 3 giờ đồng hồ, thì Đức Giê-su cũng được biến đổi từ tình trạng bị chết rồi sống lại trong thời gian chưa đầy 3 ngày. Như con cánh quýt đã hóa thành con chuồn chuồn nước, khiến các con cánh quýt bạn nó không nhận ra, thì Đức Giê-su cũng trở nên một người mới, đến nỗi nhiều môn đệ thân tín cũng không nhận ra Người sau khi phục sinh và đã hiện ra gặp gỡ nói chuyện với họ. Như con cánh quýt sau khi lột xác thành chuồn chuồn nước, đã có khả năng bay lượn trong không khí, thì thân xác của Đức Giê-su sau khi sống lại cũng có những năng lực mới, trổi vượt hơn thân xác của Người trước đó...

 

3) THANH TẨY MÙI HỔ DỮ:

 

Tạp chí “Bách Khoa Văn Học” có đăng một truyện ngắn với tựa đề là “Mùi Cọp” như sau:

 

Có một đôi vợ chồng trẻ nọ. Chồng là giảng viên đại học. Còn vợ vừa là diễn viên, lại vừa huấn luyện thú của một đoàn xiếc. Người chồng, dù nhận thấy nghề dạy thú của vợ mình có một cái gì đó không bình thường, nhất là cái mùi cọp, lúc nào cũng hăng hắc, xuất phát từ thân thể của vợ, nhưng anh vẫn yêu vợ tha thiết. Cái mùi cọp thật là khó chịu, nhưng người diễn viên dạy thú không thể thiếu mùi ấy, vì nhờ đó mà bày cọp dữ mới nhận ra cô và ngoan ngoãn nghe theo cô. Rồi một hôm, hai vợ chồng giận nhau và cơn giận kéo dài nhiều ngày. Cuối cùng, người vợ chủ động làm lành bằng cách tẩy sạch mùi cọp bằng một loại nước hoa thơm phứ và hai người đã làm hòa cùng nhau. Thế nhưng, đến đêm hôm sau thì người vợ đã chết. Chị đã chết vì con cọp dữ mà chị trước đó chị đã thuần hóa được. Vì nó đã không còn nhận ra chị khi mùi cọp quen thuộc không còn, mà chỉ có mùi nước hoa xa lạ. Con cọp dữ đã hoảng hốt trước cái mùi lạ lẫm ấy, nên đã tự vệ bằng cách tấn công chị. Và chỉ trong phút chốc, chị đã bị tan xác dưới móng vuốt của con cọp mà chị hết lòng yêu thương.

 

Qua câu chuyện trên, chúng ta cảm nhận được tình thương yêu của người vợ. Vì thương chồng, chị đã chấp nhận tẩy rửa mùi cọp nơi mình và đã hy sinh mạng sống mình do hành động ấy. Đức Giê-su đã yêu và yêu đến cùng, nên đã hiến mạng sống mình vì chúng ta như Người đã nói:  “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Trong Đêm thánh vọng Phục Sinh, Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng chịu mai táng vơi Đức Ki-tô, chôn vùi đi con người cũ tội lỗi với mùi dục vọng sai trái, để được sống lại với Người như lời thánh Phaolô: “Hãy mặc lấy người mới đã được tạo dựng nên theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật” (Ep 4,22-24).

 

4) NẾU THỰC SỰ TIN VÀO CHÚA SẼ KHÔNG BUỒN SẦU VÌ MẤT NGƯỜI THÂN:

 

Một cậu bé hỏi mẹ về đứa em mới chết hiện đang ở đâu. Người mẹ đáp: “Em con đang ở trên thiên đàng với Chúa Giê-su”. Mấy ngày sau, bà mẹ nói chuyện với bạn bè tỏ ý đau buồn khi nhắc đến đứa con mới mất. Bé ngạc nhiên hỏi mẹ: “Khi mẹ mất vật gì, tức là mẹ không biết nó đang ở đâu phải không hả mẹ?” Bà mẹ đáp: “Phải”. Bé hỏi tiếp: “Mẹ biết em con đang ở với Chúa, sao mẹ lại buồn và nói là em con đã mất?” Bà mẹ chợt tỉnh ra nên từ đó bà không còn cảm thấy đau buồn nữa, vì ý thức rằng con mình giờ đang vui hưởng hạnh phúc với Chúa trên thiên đàng.

 

3. SUY NIỆM:

 

Hôm nay cùng với Hội Thánh, chúng ta long trọng mừng mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giê-su. Đây là mầu nhiệm quan trọng nhất trong đạo Công Giáo dựa trên những bằng chứng vững chắc và mang lại hiệu quả tốt đẹp trong cuộc sống đức tin của người tín hữu, nhờ đó chúng ta mới có thể chu tòan sứ mệnh làm chứng nhân của Người.

 

1) Ý nghĩa của mầu nhiệm Phục Sinh:

 

a) Đức Ki-tô sống lại, mang đến cho chúng ta niềm hy vọng cùng được sống lại với Người: Khi sống lại Đức Ki-tô đã mở đường cho chúng ta từ cõi chết vào trong cõi sống muôn đời. Từ nay, thập giá không còn là sự nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của phục sinh vinh quang. Ánh sáng của Đức Ki-tô đã bừng lên trong đêm tối, và niềm hy vọng thân xác loài người sau này sẽ sống lại không phải là sự hão huyền. Đến ngày tận thế Đức Ki-tô sẽ lại đến phán xét chung nhân loại. Người sẽ cho những ai tin vào Người, thể hiện qua việc yêu thương phục vụ Người hiện thân nơi những người nghèo đói bất hạnh, cũng sẽ được vào trong vinh quang phục sinh với Người.

 

b) Người tín hữu cần sống niềm tin vào Chúa Ki-tô Phục Sinh như thế nào?

 

Chết với Chúa Ki-tô là loại trừ con người cũ của chúng ta đang nằm dưới ách thống trị của các thói hư như tham lam, ích kỷ, kiêu căng, ghen ghét, hận thù…. để con người mới được tái sinh trong Chúa Ki-tô được lớn lên.

 

Sống lại với Chúa Ki-tô là mặc lấy Chúa Ki-tô như lời thánh Phao-lô: “Như giữa ban ngày, anh em hãy sống đoan trang tiết độ, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không kình địch ghen tương; nhưng hãy mặc lấy Đức Giê-su Ki-tô và đừng lo tìm thoả mãn những đam mê xác thịt” (Rm 13, 13-14).

 

Mặc lấy Chúa Ki-tô là có những tâm tình cao đẹp, cư xử ôn hoà nhân ái như Chúa Ki-tô, biết thứ tha, yêu thương và chân thành phục vụ tha nhân như Chúa Ki-tô.

 

Làm được như thế, chắc chắn chúng ta sau này sẽ được khải hoàn vinh thắng với Chúa Phục Sinh.

 

2) Chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa:

 

a) Các môn đệ đã chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa:

 

Sở dĩ các môn đệ đã có thể làm chứng cho Chúa Giêrsu là nhờ được ơn Thần Khí của Người biến đổi: Từ thái độ sợ hãi trốn chạy trở nên can đảm công khai nhận mình là môn đệ Chúa, Từ thái độ hèn nhát phản bội trở nên trung thành can đảm tuyên xưng đức tin, vui mừng chịu đòn vọt tù tội và sẵn lòng chịu chết vì đức tin. Chắc chắn các ngài đã gặp được Chúa Phục Sinh nên lời chứng của các ngài mới đầy xác tín và có sức thuyết phục, đến nỗi các tín hữu đầu tiên đã sẵn lòng dâng của cải mình có làm của chung, chấp nhận cuộc sống chui lủi trốn chạy, sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho niềm tin vào cuộc sống vĩnh hằng đời sau. Người ta sẽ không thể lý giải được sự biến đổi kỳ diệu đó nếu các ngài đã không gặp được Chúa Phục Sinh.

 

b) Các tín hữu hôm nay phải làm chứng cho Chúa như thế nào và bằng cách nào?:

 

- Làm chứng cho Chúa hôm nay không phải chỉ là thuật lại cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm, nhưng là minh chứng cho mọi người biết Đức Ki-tô đã chiến thắng thần chết, đã từ cõi chết sống lại mà chính chúng ta đã được gặp Chúa và được Người biến đổi ra sao.

 

- Làm chứng cho Chúa hôm nay là loan báo Tin Mừng cho những kẻ chưa tin, biểu lộ dung nhan của Người qua lối sống quên mình vị tha và bác ái, sẵn sàng chia sẻ cơm áo cho người nghèo đói và khiêm nhường phục vụ những người bệnh tật, bất hạnh và đang bị bỏ rơi như phục vụ chính Chúa.

 

- Chúng ta chỉ có thể làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu nếu chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Người giống như các môn đệ Chúa xưa. Ngày nay, để được biến đổi giống như các ngài, chúng ta cần năng đến tham dự các buổi học sống Lời Chúa để tìm hiểu ý Chúa, quyết tâm sống theo gương Chúa làm và Lời Chúa dạy. Rồi còn phải năng lãnh nhận các bí tích nhất là dự lễ và rước lễ, chúng ta sẽ được liên kết mật thiết với Chúa, đón nhận được Thần Khí Phục Sinh để chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu như Người đã phán: "Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8).

 

4. THẢO LUẬN: Trong Mùa Phục Sinh, chúng ta sẽ làm gì để chiếu tỏa ánh sáng tin yêu trước mặt người đời bằng lời nói việc làm của chúng ta?

 

5. NGUYỆN CẦU

 

  1. CHÚA GIÊ-SU, nhiều lần con liên tiếp gặp phải những điều rủi ro trái ý. Những lúc ấy, con cảm thấy như bị Chúa bỏ rơi. Nhiều lúc con chán nản muốn được chết đi cho xong! Nhưng lạy Chúa.  Con biết Chúa cũng đã từng ở vào hoàn cảnh giống như con: Bị môn đồ phản bội chạy trốn và chối bỏ không biết Thầy là ai, bị quân lính đánh đập tàn nhẫn, bị dân chúng đòi Phi-la-tô kết án tử hình thập giá, bị kẻ thù xỉ vả mắng nhiếc trên cây thập giá, cảm thấy như bị Chúa Cha bỏ rơi... Thế mà trong những giờ phút đau thương ấy, Chúa vẫn một lòng phó thác cậy trông, và nhờ quyền năng Thánh Thần, Chúa đã chiến thắng thần chết, đã trỗi dậy khỏi mồ và đã được Chúa Cha tôn vinh, để ban ơn cứu độ cho loài người chúng con. Xin cho chúng con hôm nay biết sẵn sàng chịu đựng đau khổ là vác thập giá do Chúa gởi đến. Nhờ cùng chết với Chúa, chúng con hy vọng sẽ cùng được sống lại với Chúa sau này.

 

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

 

LM ĐAN VINH - HHTM

 

 

 

 

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

 

CN PHỤC SINH ABC

Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9

 

ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN

 

I.HỌC LỜI CHÚA

 

1.TIN MỪNG: Ga 20,1-9

 

(1) Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá lăn khỏi mộ. (2) Bà liền chạy về gặp Si-mon Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu?”. (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy, nhưng môn đệ kia mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó nhưng không vào. (6) Ông Si-mon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.

 

2.Ý CHÍNH:

 

Gio-an viết Tin mừng nhằm mục đích “Để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31). Riêng đoạn Tin mừng hôm nay, Gio-an cho thấy Đức Giê-su thực sự đã từ cõi chết sống lại như Người đã báo trước.

 

3.CHÚ THÍCH:

 

-C 1: +Ngày Thứ Nhất trong tuần: Theo Sáng Thế Ký, thì một tuần lễ có bảy ngày: Ngày Thứ Nhất là ngày sau ngày Sa-bát và khởi đầu một tuần lễ. Về sau, Giáo hội dựa vào việc Chúa Phục Sinh hiện ra vào ngày Thứ Nhất, nên đã gọi đó là ngày Chúa Nhật hay ngày của Chúa. +Sáng sớm… lúc trời còn tối: Về thời gian khi các phụ nữ ra thăm mộ, các Tin mừng có những diễn tả hơi khác nhau: Ở đây Gio-an viết: “Sáng sớm ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc trời còn tối” (x. Ga 20,1); Còn Mát-thêu viết: “Sau ngày Sa-bát, khi ngày Thứ Nhất trong tuần vừa ló rạng (x. Mt 28,1); So với Mác-cô: “Sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc” (x. Mc 16,2) ; Riêng Lu-ca lại viết: “Ngày Thứ Nhất trong tuần, vừa tảng sáng” (x. Lc 24,1). +Ma-ri-a Mác-đa-la: Đây là Ma-ri-a quê tại Mác-đa-la. Mác-đa-la là một thị trấn nằm trên bờ phía Tây Biển Hồ Ghen-nê-xa-rét. Bà này đã từng bị 7 quỷ ám trước khi theo Đức Giê-su (x. Lc 8,2). Số 7 xuất hiện khá nhiều trong Kinh Thánh Cựu Ước của Do Thái giáo và Kinh Thánh Tân Ước của Ki-tô giáo. Nó được coi là con số hoàn mỹ cả về số lượng lẫn tâm linh. Bà Ma-ri-a này là một trong những phụ nữ đầu tiên ra thăm mộ Chúa (x. Ga 20,1; Mt 28,1). Trước đó, bà đã can đảm đứng gần thập giá (x. Ga 19,25; Mt 27,56) và chứng kiến hai môn đệ mai táng Đức Giê-su (x. Mt 27,61; Mc 15,47).

 

-C 2: +Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phê-rô: Câu này nói lên vai trò quan trọng đặc biệt của Phê-rô, là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Nên Ma-ri-a Mác-đa-la đã phải báo cáo với ông trước tiên về việc xác Thầy biến mất. +Và người môn đệ Đức Giê-su thương mến: Cách nói “môn đệ Đức Giê-su thương mến” là kiểu nói chỉ có trong Tin mừng Gio-an. Một kiểu nói khiêm tốn: tác giả không muốn nhắc tên riêng của mình. +Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ và chúng tôi không biết: Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a Mác-đa-la không nghĩ đến việc Chúa phục sinh như nhiều lần Người đã báo trước, mà bà chỉ nói theo suy luận tự nhiên khi nghĩ rằng có ai đó đã đến lấy xác Thầy và đưa ra khỏi mồ. “Chúng tôi” ám chỉ Ma-ri-a không đi một mình mà cùng đi với mấy bà khác nữa (x. Mt 28,1).

 

-C 3-4: +Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ: Khi được các phụ nữ thông báo mộ trống và xác Thầy biến mất, hai môn đệ nòng cốt là Phê-rô và Gio-an liền tức tốc chạy ra mộ để kiểm tra thực hư. Điều đó cho thấy lòng nhiệt thành và ý thức trách nhiệm trổi vượt của hai ông này. +Môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước: Lý do Gio-an chạy nhanh hơn và đến mộ trước Phê-rô đơn giản vì ông còn trẻ nên khỏe hơn và cũng vì có lòng mến Thầy hơn.

 

-C 5-6: +Băng vải còn ở đó: Đây là tấm vải lớn bao bọc toàn thân Đức Giê-su. Khăn này theo truyền thuyết còn được lưu giữ tại nhà nguyện thánh Gio-an ở Tu-ri-nô miền Bắc nước Ý. +Nhưng không vào: Có thể Gio-an chờ để nhường cho Phê-rô là đàn anh vào trước. Nhưng đúng hơn có lẽ do ông đang bàng hoàng trước sự kiện cửa mộ mở và mải suy nghĩ về những tấm khăn để lại, đủ thời gian cho Phê-rô kịp chạy đến nơi. +Si-mon Phê-rô … vào thẳng trong mộ: Phê-rô vốn tính quả quyết nên đã lập tức vào mộ khi vừa đến nơi.

 

-C 7-9: +Và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi: Bên trong mộ, các khăn liệm xác vẫn còn để lại, khác với trường hợp La-da-rô khi sống lại đi ra ngoài trong tình trạng “chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn (x. Ga 11,43-44). Điều này cho thấy Đức Giê-su không cần sự giúp đỡ của người đời mới trỗi dậy ra khỏi mồ được. Người đã tự lăn tảng đá che kín mộ thế nào thì cũng tự tháo gỡ các khăn liệm và khăn che mặt như vậy. Sự kiện khăn còn để lại là dấu chỉ cho thấy Đức Giê-su đã sống lại. Vì kẻ trộm sẽ chẳng chịu mất nhiều thời giờ ngồi cởi các dây vải ra xếp gọn để vào một nơi rồi mới đem xác đi ! +Ông đã thấy và đã tin: Dấu chỉ ngôi mộ trống và các băng vải liệm xác xếp gọn để lại đã giúp Gio-an suy luận và đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Đức Giê-su đã từ cõi chết sống lại. +Trước đó hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết: Trước khi thấy các dấu chứng thì Gio-an và các Tông đồ đều không tin Thầy sống lại, dù Người đã ba lần báo trước (x. Mt 16,21; 17,23; 20,19). Nhưng khi thấy mồ trống, các khăn vải liệm xác và dây băng được cuộn lại để riêng một chỗ, thì hai ông nhớ lại những lời Thánh Kinh đã được ứng nghiệm và tin Đức Giê-su đã thực sự từ cõi chết sống lại (x.Tv 16,10; Tv 2,7; Hs 6,2).

 

4.CÂU HỎI: 1) Tại sao ngày nay người ta gọi ngày Thứ Nhất trong tuần là Chúa Nhật? 2) So sánh các lời tường thuật của bốn tác giả Tin mừng về thời điểm bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mồ Chúa có giống nhau không? 3) Bạn biết gì về bà Ma-ri-a Mác-đa-la? 4) Bà Ma-ri-a đã báo tin xác Thầy biến mất cho 2 Tông đồ nào? Tại sao? 5) Qua câu nói với Phê-rô và Gio-an, bà Ma-ri-a Mác-đa-la có tin mầu nhiệm Thầy phục sinh không? 6) Thái độ chạy nhanh ra mồ của Phê-rô và Gio-an cho thấy ý thức trách nhiệm của 2 ông thế nào? 7) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô? 8) Tại sao Gio-an đến mộ trước Phê-rô mà không vào mộ ngay? 9) Phê-rô và Gio-an cùng thấy hiện tượng mồ trống, băng vải và khăn che đầu được xếp gọn, nhưng ông nào đã tin vào mầu nhiệm Chúa phục sinh trước? 10) Do đâu mà hai ông Gio-an và Phê-rô tin Thầy đã thực sự sống lại chứ không bị kẻ gian lấy cắp như báo cáo của bà Ma-ri-a trước đó?

 

II.SỐNG LỜI CHÚA:

 

1. LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8).

 

2. CÂU CHUYỆN:

 

1) THẾ GIỚI SẼ RA SAO NẾU KHÔNG CÒN ĐỨC TIN VÀO CHÚA?

 

 “THẾ GIỚI TRONG TĂM TỐI” là tựa đề của cuốn phim diễn tả câu chuyện về một nhà khảo cổ học lừng danh, đã tổ chức một công cuộc khai quật mang tính khoa học ở thủ đô Giê-ru-sa-lem.

 

Ngọn đồi Golgotha đã được đào bới cẩn thận, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo Tin Mừng Thánh Gio-an, xác của Chúa Giê-su được chôn cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị án tử hình thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét, rồi một ngày mọ nhà khảo cổ đã cho biết: “Tôi đã tìm thấy xác của ông Giê-su”. Rồi ông đã tổ chức cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao tháng ngày đào bới vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mặt mọi người một xác người khô đét, nhưng vẫn còn nhận ra tay chân bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm.

 

Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã được an táng” và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có chuyện phục sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn đây”.

 

Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm thấy xác ông Giê-su:

 

- Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.

 

- Một linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ.

 

- Chuông các thánh đường im tiếng.

 

- Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.

 

- Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống…

 

- Thế giới chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.

 

Cuốn phim kết thúc với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giê-su và bí mật đặt vào trong ngôi mộ mấy năm trước khi khởi sự cuộc đào bới này”.

 

Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong Tuần Thánh. Những ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin Chúa Giê-su đã Phục Sinh: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết (theo Radio Veritas)

 

2) SỐNG LẠI THẬT VỀ PHẦN LINH HỒN NHỜ LẮNG NGHE LỜI CHÚA:

 

Bà REGINA RILEY hằng cầu nguyện cho hai cậu con trai đã bỏ rơi đức tin nhiều năm… Bỗng vào một buổi sáng Chúa nhật, bà không thể tin vào mắt mình khi thấy hai đứa con đi vào nhà thờ ngồi ở hàng ghế đối diện với bà. Tan lễ, bà liền hỏi lý do nào đã khiến các con trở về với Chúa như vậy. Đứa em đã mau mắn kể lại như sau:

 

Trong thời gian đi nghỉ hè tại Colorado, vào một sáng Chúa nhật, chúng con đang lái xe thả dốc trong cơn mưa tầm tã. Bỗng nhiên, chúng con thấy một cụ già không mang theo dù, người ướt sũng đang đội mưa bước đi với dáng điệu khập khiễng như sắp ngã quỵ.

 

Chúng con liền dừng lại và mời cụ lên xe. Sau đó cụ cho biết mình đang đi nhà thờ cách đó 5 cây số để dự lễ Chúa Nhật. Chúng con liền đưa cụ đến tận nhà thờ. Nhưng vì trời vẫn còn mưa nên hai anh em vào nhà thờ dự lễ vói ý định sẽ đưa cụ về nhà sau lễ. Lạ thay, sau khi được nghe Lời Chúa và bài giảng của vị linh mục, chúng con cảm thấy rất xúc động, tâm hồn như được đổi mới hoàn toàn. Mẹ biết không, lúc bấy giờ chúng con như đứa con được trở về sau nhiều ngày đi xa nhà.

 

Hai anh em trong câu chuyện trên đã một thời tin Chúa. Nhưng giông tố thời niên thiếu đã cướp đi bao kỷ niệm đạo đức tuổi ấu thơ. Thế rồi, cụ già đã xuất hiện và loan báo một tin mừng bằng gương sáng đạo đức là quyết tâm đội mưa đi dự lễ Chúa Nhật. Điều này như lời Chúa nhắc bảo: “Thầy hẹn gặp hai con tại nhà thờ”. Nhờ được gặp Chúa mà đức tin của hai anh em đã sống lại.

 

3) VÌ THEO ĐẠO MÀ TÔI ĐÃ MẤT TẤT CẢ:

 

Trong một xưởng thợ, một nhóm công nhân nam nữ đang đua nhau nói lời khích bác chê bai Đạo Công Giáo. Họ cho rằng: Đạo làm mê muộn trí khôn, bóp nghẹt lẽ phải, làm sai lạc trí phán đoán tự nhiên của con người... Khi bọn họ vừa ngừng lời, một nam công nhân đã lên tiếng: "Phải, vì Đạo Chúa mà tôi đã bị mất tất cả!"

 

Mọi người đều hướng mắt nhìn anh ta. Người thợ nói tiếp: "Tôi là một tên bợm rượu say sưa tối ngày, đập đánh vợ con, phá tán làng xóm, cờ bạc hút xách, khiến ai cũng khinh chê xa lánh. Đạo Chúa đã hoán cải tôi, làm cho tôi đoạn tuyệt được tất cả những thứ đó. Đạo Chúa còn làm cho tôi mất đi bao tâm địa xấu xa, các đam mê xấu khác nữa... Xưa kia, Satan thống trị gia đình tôi, đã biến tổ ấm yêu đương trở thành hỏa ngục. Thì nay, mọi người trong gia đình tôi đã nên con cái Thiên Chúa. Như vậy, do theo đạo mà tôi đã bị mất tất cả ".

 

Sau đó, người thợ đã lớn tiếng kêu gọi: "Hỡi các bạn, bây giờ các bạn đã biết Đạo Công Giáo đã khiến tôi mất đi những gì rồi. Vậy các bạn cũng hãy làm như tôi, hãy tin như tôi, tôi cam đoan với các bạn rằng, các bạn sẽ không phải hối hận đâu".

 

4) CHU TOÀN SỨ MỆNH RAO GIẢNG TIN MỪNG CHO CÁC DÂN TỘC:

 

Một câu chuyện ngụ ngôn về sứ mệnh được sai đi của Hội Thánh như sau:

 

Sau khi chịu chết trên thập giá, Chúa Giê-su đã sống lại và vào trong vinh quang. Tuy vậy, trên tay chân và cạnh sườn của Người vẫn còn mang những dấu đau thương từ những cây đinh và lưỡi đòng đâm thâu. Một vị thiên thần đã hỏi Chúa Giê-su rằng: “Chắc Chúa đã phải chịu muôn vàn đau khổ nhục nhã do loài người gây ra?” Chúa Giê-su đáp: “Đúng vậy !” Thiên thần hỏi tiếp: “Có phải tất cả con cái loài người đều biết Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết để đền thay cho tội lỗi của họ không?” Chúa trả lời: “Chưa đâu, mới chỉ có một số ít người nhận biết mà thôi”. Thiên thần lại hỏi: “Thế thì Chúa đã làm gì để con cái loài người nhận biết ơn cứu độ đó?” Chúa Giê-su đáp: “Ta đã sai các môn đệ đi loan báo tin vui cho những người khác, đến khi nào tất cả mọi người trên địa đầu đều được nghe Tin mừng Cứu Độ ấy mới thôi”. Vị thiên thần đã hiểu rõ tính bốc đồng của con cái loài người, tỏ ra nghi ngờ họ, nên hỏi tiếp: “Giả như Phê-rô, Gio-an và các Tông đồ quên không thi hành sứ vụ rao giảng đó thì sao? Nếu các tín hữu các thế hệ sau này có lúc nào đó gặp phải những bách hại chống đối của kẻ ác mà chán nản muốn buông xuôi thì sao? Chúa có lập một chương trình cứu độ nào khác nữa không?” Chúa Giê-su trả lời: “Ta sẽ không lập thêm một chương trình cứu độ nào khác nữa ! Ta đã biết trước tính khí con cái loài người luôn nhát đảm sợ sệt và bất định, nên đã thổi hơi ban sức mạnh là Thần Khí của Ta đến cho họ, để giúp họ thi hành sứ vụ, và Ta hoàn toàn tin tưởng họ sẽ chu toàn được sứ vụ đó”.

 

3.SUY NIỆM:

 

Bằng lối văn súc tích Tin mừng Gio-an đã mô tả cuộc hành trình đức tin và đức mến của ba nhân vật quan trọng trong bài Tin mừng Chúa Nhật Phục Sinh hôm nay như sau:

 

1) Lòng mến đã thúc bách Ma-ri-a Mác-đa-la mau mắn đi thăm mồ Chúa:

 

Niềm vui phục sinh khởi đầu bằng việc bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi thăm mộ Đức Giê-su ngay từ sáng tinh sương ngày Thứ Nhất trong tuần. Bà hốt hoảng khi thấy tảng đá che cửa mồ đã bị lăn sang một bên và xác Thầy trong mồ đã biến mất. Trước đó chính lòng mến đã khiến bà can đảm đứng dưới chân thập giá (x. Ga 19,25), và ở lại để chứng kiến hai môn đệ an táng Thầy vào  chiều Thứ Sáu (x. Mt 27,61). Giờ đây lòng mến lại thôi thúc Ma-ri-a và cùng với mấy bà khác đem theo dầu thơm ra mộ để xức trên xác Đức Giê-su (x. Mc 16,2). Khi thấy mồ trống, Ma-ri-a hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ Phê-rô và Gio-an (x. Ga 20,2). Theo bà suy nghĩ thì ai đó đã đến lấy cắp xác Thầy và bà không biết họ để Người ở đâu (x. Ga 20,13.15). Ma-ri-a chẳng hề dám nghĩ là Thầy đã phục sinh, mà bà chỉ mong sao tìm lại được xác Thầy mang về mà thôi. Sau khi Phê-rô và Gio-an chạy ra mộ rồi trở về, thì một lần nữa, do lòng mến thôi thúc, bà Ma-ri-a lại quay ra mồ tiếp tục than khóc. Trong lần ra mộ này, bà đã vinh dự là người đầu tiên được Chúa Phục Sinh hiện ra. Người còn trao cho bà sứ mệnh đi loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các Tông đồ như sau: “Hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ rằng: Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).

 

2) Lòng mến đã làm cho môn đệ Gio-an nhận biết Chúa Phục Sinh trước anh em:

 

Gio-an là một trong bốn môn đệ được Đức Giê-su kêu gọi đầu tiên (x Mt 4,21). Ông là một trong ba môn đệ được được chứng kiến Người biến hình (x Mt 17,1) và cũng là môn đệ được Thầy yêu quý nhất (x Ga 13,23). Tình yêu đối với Thầy đã thúc bách ông, làm cho ông trở thành người can đảm nhất: Dám đi theo sau khi Thầy bị bắt và bị xét xử trước hai tòa án đạo đời; Dám đứng dưới chân thập giá để chứng kiến giờ phút cuối cùng của Thầy và được Thầy trao phó Đức Ma-ri-a làm mẹ và đã đón Mẹ Ma-ri-a về nhà mình mà phụng dưỡng thay cho Thầy (x Ga 19,27). Cũng chính tình yêu ấy đã khiến Gio-an chạy nhanh hơn và đạt đến đức tin trước Phê-rô (x Ga 20,8). Cũng tình yêu ấy đã giúp Gio-an trở thành người đầu tiên trong nhóm Mười Hai nhận ra Chúa tại biển hồ Ti-bê-ri-a (x Ga 21,7).

 

3) Lòng mến là điều kiện để được Chúa trao quyền mục tử chăn dắt đoàn chiên:

 

Phê-rô là một trong bốn môn đệ đã theo Đức Giê-su trước hết (x. Mt 4,18-20). Ông tình nguyện bỏ mọi sự mà theo Thầy (x. Mt 19,27-29; Lc 18,28-30). Ông luôn được xếp đứng đầu Nhóm Mười Hai (x Mt 10,2). Ông còn là một trong ba môn đệ được chứng kiến Thầy biến hình trên núi cao (x Mt 17,1), chứng kiến phép lạ Người làm cho một bé gái mới chết sống lại (x Lc 8,51) và được đi theo chứng kiến cảnh Thầy hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x Mt 26,37). Trong thời gian rao giảng Tin mừng, Đức Giê-su thường đến trọ tại nhà Si-mon Phê-rô mỗi khi đi ngang (x Mc 1,29). Có lần Phê-rô đại diện anh em để tuyên xưng đức tin “Thầy chính là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ đức tin đó, Phê-rô đã được Người khen là có phúc, và hứa sẽ xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin vững chắc như đá của ông. Người cũng trao quyền cầm buộc và tháo cởi cho ông (x Mt 16,17-19). Ông cũng được Đức Giê-su trao sứ vụ củng cố đức tin cho anh em sau khi ăn năn trở lại (x. Lc 22,31-32). Dù có nhiều khuyết điểm như: khuyên Thầy đừng chấp nhận đi con đường thập giá vào vinh quang nên đã bị Người nặng lời quở trách (x Mt 16,22-23), hoặc có lúc ông đã bị Người giáo huấn về thái độ kém lòng tin (x Mt 14,31) hoặc khi không muốn được Thầy rửa chân (x Ga 13,6-8). Phê-rô còn có lỗi khi quá tự tin vào sức riêng mình (x Mt 26,33-35). Nhất là ông đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước (x Mt 26,69-75).

 

Nhưng Phê-rô cũng có lòng yêu mến Thầy hơn ai hết. Lòng mến của ông thể hiện qua thái độ dứt khoát từ bỏ nghề chài lưới và chấp nhận theo Chúa đi “lưới bắt các linh hồn” (x Mt 4,18-20). Ông cũng hay được Thầy hỏi ý kiến như: có nên nộp thuế Đền thờ không? (x Mt 17,24-27). Ông cũng hay bàn hỏi Thầy như phải tha thứ cho người khác đến mấy lần? (x Mt 18,21). Có lần ông đại diện anh em tuyên xưng lòng tin và hứa trung thành theo Thầy đến cùng (x Ga 6,68-69). Ông đã hành động bảo vệ Thầy bằng cách rút gươm chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế khi Thầy bị bắt (x Ga 18,10). Ông không khiếp nhược trốn chạy như các người khác, mà cùng Gio-an đi theo để biết diễn tiến về cuộc khổ nạn của Người (x Ga 18,15). Trong Tin mừng hôm nay, khi nghe các phụ nữ báo tin xác Thầy bị đánh cắp, Phê-rô cùng với Gio-an chạy ra mộ kiểm chứng thựic hư. Trước sự kiện mồ trống, các khăn vải liệm xác vẫn còn, Phê-rô và Gio-an đã tin Thầy đã phục sinh (x Ga 20,8-9). Phê-rô còn được Chúa Phục Sinh hiện ra trước Nhóm Mười Hai (x Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Khi được Gio-an mách bảo người mặc áo trắng đứng trên bờ là Thầy, Phê-rô vội khoác áo vào rồi nhảy xuống biển bơi vào để sớm gặp Thầy (x Ga 21,7). Ông cũng tuyên xưng lòng mến ba lần và được Chúa Phục Sinh trao sứ vụ chăn dắt đoàn chiên (x Ga 21,15-17). Ông còn chứng tỏ lòng mến tột cùng khi sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho Thầy lúc cuối đời (x Ga 21,18-19).

 

4) Giá trị của đức Tin và đức Mến trong cuộc sống của người tín hữu:

 

Chính lòng mến Chúa đã làm cho Ma-ri-a Mác-đa-la ăn năn sám hối từ bỏ tội lỗi, thành người đầu tiên đi ra thăm mồ và được Chúa Phục Sinh hiện ra trao sứ vụ loan Tin mừng cho các Tông đồ. Cũng chính lòng mến Thầy của Gio-an đã làm cho ông nhận ra Thầy trước các anh em. Lòng mến Thầy làm cho Phê-rô luôn gắn bó mật thiết với Thầy, hy sinh mọi sự để đi theo làm môn đệ của Thầy. Dù có lúc yếu đuối sa ngã phạm tội, nhưng ông Phê-rô đã sớm ăn năn sám hối và đã được Thầy tín nhiệm trao cho sứ vụ làm đá tảng đức tin, bảo vệ nâng đỡ đức tin của các anh em, và còn được trao quyền chăn dắt đoàn chiên là Hội Thánh.

 

Đối với các tín hữu chúng ta, lòng mến rất cần để chúng ta khỏi bị thất vọng hoặc hốt hoảng khi gặp phải đau khổ thất bại. Cuộc sống chúng ta nhiều lúc giống như một ngôi mộ trống rỗng, khi những gì chúng ta yêu quý nhất, những người thân yêu nhất không còn, chúng ta thường chạy đôn chạy đáo đi tìm trong nước mắt đau thương như Ma-ri-a Mác-đa-la xưa (x Ga 20,11.13). Nhưng sự chết đã không thể giam hãm được Đức Giê-su. Sự sống đã trỗi dậy từ sự chết. Ánh Sáng đã bừng lên từ trong bóng tối. Tình Yêu đã chiến thắng hận thù và Tin mừng Phục Sinh đã và sẽ được loan truyền đi khắp thế gian.

 

4.THẢO LUẬN: 1) Nơi Đức Giê-su: sự sống đã chiến thắng thần chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù. Còn bạn, bạn có tin rằng đối với những kẻ biết đặt trọn niềm tín thác cậy trông vào Chúa thì “sau cơn mưa trời sẽ lại sáng”, “Sau cơn bĩ cực tới hồi thái lai” không? 2) Khi gặp phải những hoàn cảnh đau thương trái ý, bạn cần làm gì để không bị chán nản thất vọng, nhưng luôn đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa sẽ giải cứu và giúp bạn trỗi dậy?

 

5.NGUYỆN CẦU:

 

LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH,

Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm cho cuộc đời con mãi xanh tươi.

Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm cho con luôn vững tâm giữa bao sóng gió cuộc đời.

Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm cho khuôn mặt con luôn rạng rỡ.

Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con luôn mau mắn trỗi dậy sau mỗi lần vấp ngã.

Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần luôn tác động đổi mới đời con.

 

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

 

LM ĐAN VINH - HHTM

 

 

 

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

 

CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH A.B.C

Cv 4.32-35 ; 1 Ga 5,1-6 ; Ga 20,19-31

 

TỪ KHÔNG TIN ĐẾN VỮNG TIN VÀ LOAN TRUYỀN ĐỨC TIN CỦA  TÔ-MA

 

I.HỌC LỜI CHÚA

 

1. TIN MỪNG: Ga 20,19-31:

 

(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!”. (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha ; Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.(24) Một người trong Nhóm Mười Hai tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. (25) Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa! Ông Tô-ma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.(26) Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em”. (27) Rồi người bảo ông Tô-ma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”.(28) Ông Tô-ma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! “ (29) Đức Giê-su bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc cho những người không thấy mà tin!”.(30) Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ ; Nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. (31) Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.

 

2. Ý CHÍNH:

 

Tin Mừng Gio-an hôm nay tường thuật hai lần Đức Giê-su hiện ra với các tông đồ. Cả hai lần đều vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần và cách nhau một tuần lễ. Lần đầu Tô-ma vắng mặt, và lần sau có ông hiện diện. Khi hiện ra lần thứ hai, Đức Giê-su đã thỏa mãn đòi hỏi của Tô-ma đòi được “mắt thấy tai sờ”. Khi được Chúa Phục Sinh hiện ra, lập tức Tô-ma đã có đức tin và đã tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Sau đó, Đức Giê-su đã động viên các tín hữu về sau là những người chỉ có đức tin bởi nghe: “Phúc thay những người không thấy mà Tin!”.

 

3. CHÚ THÍCH:

 

- C 19-20: + Ngày thứ nhất trong tuần: Ngày nay, Giáo Hội đã chọn Ngày Thứ Nhất trong tuần để mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh và gọi là Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. Đây là ngày lễ nghỉ, thay thế Thứ Bảy (Sa-bát) của Do Thái Giáo. + Đức Giê-su đến: Đức Giê-su Phục Sinh hiện đến trong lúc phòng đóng kín. Điều này cho thấy thân xác phục sinh của Người có đặc tính thiêng liêng siêu việt, có khả năng hiện diện khắp nơi. + Bình an cho anh em! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa: Đức Giê-su Phục Sinh đem lại sự bình an (x. Ga 20,19.21) và niềm vui (x Ga 20,20) cho các môn đệ (x Ga 14,27). + Người cho các ông xem tay và cạnh sườn: Đức Giê-su Phục Sinh cũng là Đấng đã bị đóng đinh chân tay vào thập giá (x. Ga 19,18), và bị lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn (x. Ga 19,34). Điều này cho thấy có một dây liên kết giữa mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.

 

- C 21-23 + Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em: Tông đồ nghĩa là “được sai đi”. Sứ mạng này xuất phát từ Chúa Cha truyền cho Đức Giê-su, và giờ đây đến lượt Đức Giê-su Phục Sinh lại truyền cho các môn đệ và tất cả mọi tín hữu. + Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”: Theo Kinh Thánh, hơi thở chính là sự sống. Như xưa, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào con người A-đam và ban sự sống cho ông (x. St 2,7), thì nay, Đức Giê-su Phục Sinh cũng thổi Thần Khí cho các môn đệ. Rồi đến lượt các môn đệ lại sẽ ban sự sống thiêng liêng ấy cho các tín hữu. + “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”: Đức Giê-su được Gio-an Tẩy Giả giới thiệu là Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (Ga 1,29). Khi làm phép lạ chữa lành một người bại liệt, Đức Giê-su đã cho thấy Người có quyền tha tội (x. Mt 9,6). Trong bài Tin Mừng hôm nay, Người còn thiết lập bí tích giải tội, ban quyền tha tội cho các Tông đồ bằng việc thông ban Thánh Thần cho các ông. Từ đây các giám mục kế vị các Tông đồ sẽ tiếp tục thông ban quyền tha tội cho các linh mục là những cộng sự viên của các ngài.

 

- C 24-25: + Một người trong Nhóm Mười Hai tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô: Tô-ma là một trong Mười Hai Tông đồ (x. Mt 10,3). Biệt danh là “Sinh Đôi”. Tính tình bộc trực và can đảm (x. Ga 11,16). Ông ưa nêu ra thắc mắc khi Đức Giê-su đang giảng để được Người dạy rõ hơn (x.Ga 14,5). + Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người...: Tô-ma đòi được “mắt thấy tay sờ”, nghĩa là đòi một đức tin khả giác giống như một nhà khoa học thực nghiệm (x. Ga 20,25). + “... thì tôi chẳng có tin”: Nhiều môn đệ khác cũng cứng tin như thế. Tin Mừng nhất lãm đã nói tới sự cứng tin của các ông như sau: “Nhưng có mấy ông vẫn hoài nghi” (Mt 28,17) ; “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy” (Mc 16,14) ; Chúa phán: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng?” (Lc 24,38).

 

- C 26-27: + “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay thầy”. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy: Đức Giê-su đã thoả mãn những đòi hỏi của Tô-ma. + Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin: Đức Giê-su tuy khiển trách tội cứng lòng của Tô-ma, nhưng Người cũng thông cảm và chỉ kêu gọi ông từ bỏ cứng lòng để tin vào mầu nhiệm Phục sinh của Người.

 

- C 28-29: + Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”: Tô-ma là môn đệ cuối cùng tin Đức Giê-su sống lại, nhưng lại là người đầu tiên tuyên xưng nội dung đức tin đầy đủ nhất về Đức Giê-su: Người vừa là Chúa (Cứu Chúa), vừa là Thiên Chúa (Con Thiên Chúa). + Phúc thay những người không thấy mà tin”: Từ nay trở đi, đức tin và mầu nhiệm Phục Sinh không dựa trên kinh nghiệm khả giác về các lần hiện ra nữa, nhưng dựa trên lời chứng của các Tông đồ (x. Ga 19,35). Sau này các Tông đồ còn làm chứng về Đức Giê-su Phục Sinh bằng việc sẵn sàng chịu chết vì đức tin vào mầu nhiệm ấy.

 

4. CÂU HỎI: 1) Tại sao ngày nay Hội Thánh chọn Ngày Thứ Nhất trong tuần làm ngày Chúa Nhật thay vì ngày Thứ Bảy (Sabát) như đạo Do thái? 2) Việc Đức Giê-su Phục Sinh đến giữa các môn đệ tại nhà Tiệc ly đang khi cửa đóng kín cho thấy thân xác của Người sau khi sống lại có phẩm chất gì? 3) Qua lời chào chúc, Chúa Phục Sinh đến đã đem lại điều gì cho các môn đệ?4) Qua việc cho môn đệ xem tay và cạnh sườn, Chúa Phục Sinh muốn nói gì với các ông? 5) Sứ mệnh tông đồ thừa sai của Hội Thánh phát xuất từ đâu và vào lúc nào? 6) Tại sao Đức Giê-su lại thổi hơi ban Thần Khí cho các môn đệ? 7) Bằng chứng nào cho thấy Đức Giê-su có quyền tha tội và Người thiết lập bí tích Giải tội ban quyền tha tội cho Hội Thánh khi nào? 8) Tin Mừng cho biết gì về tông đồ Tô-ma? 9) Tô-ma và các tông đồ có dễ tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su hay không? 10) Khi hiện ra lần thứ hai, Chúa Giê-su đã làm gì để thỏa mãn đòi hỏi mắt thấy tay sờ của Tô-ma? 11) Cuối cùng Tô-ma đã đạt tới đức tin trọn vẹn qua lời tuyên xưng nào? 12) Ngày nay các tín hữu dựa vào đâu để tin vào mầu nhiện Phục Sinh của Chúa Giê-su? 13) Sự cứng lòng của Tô-ma và của các tông đồ có giá trị thế nào đối với đức tin của các tín hữu hôm nay?

 

II.SỐNG LỜI CHÚA

 

1. LỜI CHÚA: “Phúc thay những người không thấy mà tin(Ga 20,29).

 

2. CÂU CHUYỆN:

 

1) ĐỨC KI-TÔ CHỈ ĐƯỢC TÔN VINH SAU KHI TRẢI QUA TỬ NẠN THẬP GIÁ:

 

Một hôm do muốn cám dỗ thánh Mác-ti-nô phạm tội, nên quỷ đã hiện hình thành một ông vua oai phong và phán rằng “Hỡi Mác-ti-nô, Ta cám ơn con đã tin vào Ta, và Ta mong rằng từ nay con sẽ luôn ở bên Ta và vâng nghe lời Ta truyền dạy”.

 

Mác-ti-nô chăm chú nhìn ông vua giàu sang kia và hỏi: “Nhưng thưa ngài, ngài là ai vậy?”. Vua liền trà lời: “Ta là Vua Ki-tô đây !”

 

Mác-ti-nô lại hỏi: “Vậy những vết thương ở tay chân của Đức Ki-tô đã biến đi đâu cả rồi?” Vua liền đáp “Ta từ trời xuống, nên không cần đến các vết thương đó nữa !”

 

Bấy giờ Mác-ti-nô nói: “Tôi sẽ không bao giờ tin vào một Đức Ki-tô không chịu khổ nạn và tay chân không mang thương tích!” Tên vua quỷ nghe vậy liền biến mất.

 

Đức Ki-tô sau khi Phục sinh vẫn giữ những vết thương của cuộc khổ nạn. Khi hiện ra với Tô-ma, Chúa Phục Sinh đã cho ông xem những vết thương trên tay chân và cạnh sườn Người để chứng minh Người là Đấng đã trải qua cuộc khổ nạn thập giá và đã từ cõi chết trỗi dậy.

 

2) GIÁ TRỊ CỦA CÁC VẾT SẸO TRÊN THÂN MÌNH ĐỨC GIÊ-SU:

 

Một võ sĩ đã trở lại đạo Công giáo, ngày nọ gặp một người bạn thân. Anh bạn kia hỏi: “Tôi nghe nói anh mới theo đạo công giáo phải không? Thật là tức cười !”

 

Võ sĩ tân tòng liền đápi: “Sao lại tức cười? Đó là điều tốt mà anh”. Người bạn kia lại hỏi: “Nếu vậy, liệu anh có xoá nổi chân tướng con người du côn của anh trước đây không? Những vết sẹo còn lại trên khuôn mặt anh sẽ tố cáo con người thật của anh”.

 

Võ sĩ tân tòng trả lời: “Tôi không ngại chi về điều đó. Những vết sẹo là dấu vết của hành động bạo lực tội lỗi trước kia, thì nay lại trở thành cửa sổ giúp tôi đón nhận ơn Chúa. Thực vậy, những tội của tôi đã được Chúa thứ tha, nay tuy vẫn còn dấu vết, nhưng là dấu vết tình thương của Chúa. Người đã thương tôi và đã ban ơn cứu độ cho tôi”.

 

Khi hiện ra với các môn đệ, Chúa Phục Sinh đã giữ nguyên những vết sẹo để các ông có thể nhìn xem, sờ chạm và nhận ra Người. Khi hiện ra với Tô-ma, Chúa đã thỏa mãn đòi hỏi của ông khi phán: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." (Ga 20,27). Chúa Ki-tô Phục Sinh sẽ khó thuyết phục Tô-ma tin rằng Người đã từ cói chết sống lại nếu không cho ông xem các vết sẹo trên hai bàn tay, hai bàn chân và nơi cạnh sườn của Người.

 

3) “LẠY CHÚA LÀ THIÊN CHÚA CỦA CON”:

 

Trong tạp chí Guidepots, đã bài viết về bác sĩ SCOTT HARRISON, một chuyên viên phẫu thuật bàn tay. Trong một bài tác giả đã viết về bác sĩ này như sau: “Lần nào khi đang giải phẫu tay cho một người nào đó, ông cũng đều kêu lên vào một lúc nào đó: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”. Ông có thói quen nầy ngay từ hồi còn ở Việt Nam. Một đêm nọ, vừa rời trường Y, ông được kêu đi gắp một viên đạn bị kẹt trong tay một người lính dưới ánh sáng của ngọn đèn pin. Cuộc giải phẫu ấy đã để lại cho ông một cảm xúc sâu xa, đến nỗi sau khi cuộc chiến tranh kết thúc, ông đã quyết định học chuyên ngành giải phẫu bàn tay. Nhờ đi sâu vào lãnh vực chuyên môn nầy, ông đã thẩm định được cách sâu sắc cơn đau khủng khiếp do một vật lạ gây ra, chẳng hạn như một viên đạn. Khi vật ấy xuyên thủng lớp da, lớp gân và những sợi dây thần kinh nơi bàn tay một ngườim nhà phẫu thuật ấy thường giật thót người mỗi lần nghĩ đến cơn đau kinh khiếp mà Chúa Giê-su đã phải chịu khi đôi tay Người bị đóng đinh vào cây thập giá.

 

Khi chia sẻ bài Tin Mừng hôm nay, nhà phẫu thuật đã phát biểu như sau: “Tiếng kêu ‘Lạy Chúa là Thiên Chúa của con’ của tông đồ Tô-ma không chỉ là một lời tuyên xưng đức tin, mà còn là tiếng kêu đầy cảm thông của vị tông đồ này ông nhìn thấy dấu vết của đôi bàn tay bị xé toạc của Chúa Giê-su. Chỉ đến lúc đó, Tô-ma mới nhận thức được cơn đau đớn mà Người đã phải chịu đựng trên cây thập giá. Ông đã kết thúc bài nói chuyện như sau: “Mỗi lần thực hiện giải phẫu cho một ai đó, tôi luôn nhớ tới Chúa Giê-su đã từng chịu đóng đinh hai tay vào thập giá vì tôi. Khi ấy, cũng như Tô-ma, tôi đều phải thốt lên rằng : “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con”.

 

4) CÓ THIÊN  CHÚA KHÔNG?

 

Một bác học người Pháp muốn làm một cuộc nghiên cứu trong sa mạc. Ông chọn mấy người Ả rập làm hướng dẫn viên. Một buổi chiều, khi mặt trời sắp lặn, một người trong nhóm dẫn đường trải tấm thảm xuống cát và ngồi lên đó trong dáng điệu trầm tư. Thấy thế nhà bác học buộc miệng hỏi:

 

- “Ngươi làm gì thế?”

 

- “Dạ, tôi cầu nguyện,” người kia trả lời.

 

- “Cầu nguyện à, thời buổi này mà còn cầu nguyện sao? Vậy ra anh vẫn còn tin có Thiên Chúa? … Mà anh đã nhìn thấy Chúa chưa?” Nhà bác học như muốn bắt bẻ.

 

- “Dạ chưa.”

 

- “Vậy anh đã nghe Chúa nói chưa?”

 

- “Dạ chưa.”

 

- “Vậy anh đã sờ chạm vào Chúa chưa?”

 

- “Dạ chưa,” người hướng dẫn kiên nhẫn trả lời.

 

- “Nếu thế thì anh thật là một gã điên khi tin vào một Thiên Chúa mà chưa bao giờ thấy, không bao giờ nghe, và cũng chẳng bao giờ đụng chạm được.”

 

Sau đó mọi người vào lều nghỉ đêm. Sáng hôm sau, trước khi hừng đông, nhà thông thái vừa bước ra khỏi lều đã vội kêu lên:

 

- “Ồ, này mọi người ơi: Tối hôm qua đã có một con lạc đà đi ngang qua nơi này!”

 

Người hướng dẫn trợn mắt kinh ngạc:

 

- “Vậy chứ ngài đã nhìn thấy con lạc đà đó đi ngang qua đây sao ?”

 

- “Không,” nhà thông thái tự đắc trả lời.

 

- “Vậy chứ ngài đã đụng chạm vào nó à?”

 

- “Không.”

 

- “Vậy chứ ngài nghe thấy tiếng kêu của nó à?”

 

- “Không.”

 

Người hướng dẫn reo lên:

 

- “Thế thì ngài thực là một kẻ điên khi tin rằng có một con lạc đà đã đi ngang qua khu vực chúng ta ở, khi mắt ngài không thấy, tai ngài không nghe, và tay ngài không đụng chạm đến.”

 

Nhà thông thái đáp lại:

 

- “Nhưng ta biết được có con lạc đã ấy là nhờ những dấu chân của nó còn để lại trên mặt cát kìa.”

 

Ngay lúc đó mặt trời hừng đông bắt đầu mọc lên, toả muôn tia sáng rực rỡ lung linh. Người hướng dẫn liền chỉ tay về phía mặt trời và nói: “Thế thì tôi cũng nhìn vào dấu vết là mặt trời kia để quả quyết có một Thiên Chúa đang đi qua cuộc đời tôi.”

 

Ngày nay không ít người đã dựa vào những khám phá của khoa học để tuyên bố không có Thiên Chúa, mà chỉ con người mới là chúa của vũ trụ. Và niềm tin vào Thiên Chúa đang bị khoa học bóp chết. Thế nhưng, cùng lúc đó lại có rất nhiều người khác, nhờ những khám phá của khoa học, đã nhìn thấy nhiều điều bí ẩn, siêu việt trong thế giới này, mà trí khôn con người chỉ mới vén mở được một phần sự thật it ỏi. Từ đó họ đã nhận biết sự hiện hữu của một Đấng siêu việt trên tất cả, Đấng mà các tín hữu gọi là Thiên Chúa.

 

3. SUY NIỆM:

 

1) Từ không tin đến tuyên xưng đức tin của ông Tô-ma:

 

Tin Mừng Gio-an hôm nay tường thuật hai lần Đức Giê-su hiện ra với các tông đồ sau khi sống lại. Cả hai lần Chúa đều hiện ra vào buổi chiều Ngày Thứ Nhất trong tuần và cách nhau đúng một tuần lễ. Lần thứ nhất vắng mặt Tô-ma, và lần thứ hai có ông hiện diện với các anh em. Trước đó, Tô-ma đã tuyên bố sự cứng tin của mình khi đòi phải được “mắt thấy tay sờ” mới tin Thầy sống lại từ cõi chết. Do đó, trong lần hiện ra thứ hai, Chúa Giê-su đã thỏa mãn đòi hỏi của Tô-ma khi cho ông xem các vết đinh ở hai bàn tay bàn chân và vết thương do lưỡi đòng đâm thâu ở cạnh sườn Người. Bấy giờ Tô-ma đã đạt tới đức tin trọn vẹn qua lời tuyên xưng đức tin : Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”(Ga 20,28). Sau đó Đức Giê-su đã nhắn nhủ Tô-ma và qua ông, Người chúc phúc cho các tín hữu sau này: “Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà Tin!” (Ga 20,29).

 

2) Các môn đệ khác đạt được đức tin như thế nào ? :

 

Các môn đệ của Đức Giê-su không phải là những người dễ tin. Các Tin Mừng thuật lại diễn tiến đức tin của các ông như sau:

 

- Vào sáng ngày Thứ Nhất trong tuần, khi nghe bà Ma-ri-a bao tin xác Thầy biến mất, hai môn đệ Phêrô và Gio-an đã chạy đến mồ quan sát thực hư. Gio-an đã đạt tới đức tin trước các anh em nhờ nhìn thấy những tấm khăn liệm xác và các dây băng được xếp gọn để lại trong mồ. “Ông đã thấy và đã tin”. Đức tin đến với ông nhờ sự tư duy và trực giác (x Ga 20,1-8).

 

- Bà Ma-ri-a Mácđala ban đầu đã gặp được Chúa Phục Sinh, nhưng bà không nhận ra Người mà tưởng là người giữ vườn. Bà chỉ nhận biết Ngừơi khi Người gọi tên “Ma-ri-a” (Ga 20,16).

 

- Hai môn đệ làng Em-mau cũng chỉ nhận ra Chúa Phục Sinh sau khi đã được nghe Người giải thích Kinh thánh và chứng kiến việc Người bẻ bánh (x Lc 24,13-31).

 

-Bảy môn đệ rủ nhau đi đánh cá tại biển hồ Ga-li-lê đã nhận ra Chúa Phục Sinh do vâng lời Người nên đã bắt được mẻ cá lạ lùng (x Ga 21,1-14).

 

- Riêng ông Tô-ma trong Tin mừng hôm nay đã tin khi được Đức Giê-su thỏa mãn đòi hỏi “mắt thấy tay sờ” (x Ga 20,19-29).

 

- Tuy nhiên các môn đệ chỉ đạt tới đức tin trọn vẹn vào lễ Ngũ Tuần, sau khi các ông đã được gặp Chúa hiện ra nhiều lần. Nhất là sau khi các ông đã vâng lời Chúa cầu nguyện kết hiệp với Đức Ma-ri-a và các anh em Chúa trong Nhà Tiệc Ly và nhận được đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần (x Cv 2,1-12); Chính nhờ đón nhận được sức mạnh Thánh Thần từ trên cao, các ngài đã đạt được đức tin trọn vẹn và hăng say chu tòan sứ mệnh “loan Tin mừng » đến tận cùng thế giới” (x Cv 1,8).

 

3) Làm thế nào để thuyết phục được nhiều người trong thế giới hôm nay tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su?

 

Như Tô-ma xưa, con người ngày nay cũng không dễ tin: họ luôn đòi phải được “mắt thấy tay sờ”, phải thấy được bằng chứng đáng tin. Do đó, các tín hữu chúng ta cần trình bày mầu nhiệm Chúa Phục Sinh bằng chứng tích đời sống của mình.

 

Thực vậy:

 

- Làm sao anh em lương dân có thể tin vào Chúa Phục Sinh, nếu không được xem những vết chai cứng nơi bàn tay lao động, những khuôn mặt ướt đẫm mồ hôi vì phục vụ những người nghèo khổ của các tín hữu chúng ta?

 

- Làm sao họ tin Chúa đã yêu thương chịu chết đền tội và sống lại để ban cho họ sự sống đời đời, nếu họ không nhìn thấy những dấu chỉ yêu thương quên mình phục vụ trong cộng đoàn Hội Thánh … như sách Công vụ đã thuật lại sinh họat của Hội Thánh Sơ Khai tại Giê-ru-sa-lem: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ Bẻ Bánh và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kính sợ, vì các Tông đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải , lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ Bẻ Bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ,. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được tòan dân thương mến. Và Chúa cho cộng đòan mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2,42-47).

 

- Yêu thương nhau là dấu hiệu môn đệ đích thực của Đức Giê-su: “Ở điểm này , mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Con người ngày nay luôn đòi phải được xem thấy những dấu chứng tình thương nơi các tín hữu như Đức Phaolô VI đã khẳng định: "Con người thời đại ngày nay thích nghe các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có nghe thầy dạy thì cũng bởi vì những thầy dạy này là các chứng nhân".

 

4) Thể hiện Lòng Chúa Thương Xót cụ thể là cách loan báo Tin Mừng hữu hiệu cho con người hôm nay:

 

Hội Thánh đã chọn Chúa Nhật II Phục Sinh hằng năm để kính Lòng Chúa Thương Xót, qua đó mời gọi các tín hữu chúng ta hãy noi gương Chúa thực hiện lòng thương xót đối với tha nhân nhất là những người nghèo khổ bất hạnh đang sống gần bên chúng ta.

 

- Mỗi người chúng ta cần tránh những lời nói, thái độ vụ luật và bất nhân của bọn Biệt Phái và Kinh Sư Do thái xưa đã bị Chúa nặng lời quở trách, nhờ đó anh em lương dân sẽ dễ dàng đón nhận đức tin vào Chúa hơn.

 

- Mỗi tín hữu chúng ta cũng cần thực hiện các việc bác ái cụ thể như kinh thương người, trong đó có 7 việc thương người về thể xác cần thực hiện như: Cho kẻ đói ăn; Cho kẻ khát uống; Cho kẻ rách rưới ăn mặc; Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc; Cho khách đỗ nhà: Chuộc kẻ làm tôi; Chôn xác kẻ chết.

 

- Cũng cần thực hiện lòng bác ái thương người cả về phạm vi linh hồn như: Lấy lời lành mà khuyên người; Mở dạy kẻ mê muội; An ủi kẻ âu lo: Răn bảo kẻ có tội; Tha kẻ dể ta; Nhịn kẻ mất lòng ta; Cầu cho kẻ sống và kẻ chết.

 

- Để có thể thực hành lòng thương người nói trên, mỗi người chúng ta nên quyết tâm làm một việc bác ái cụ thể như: chia sẻ cơm bánh và khiêm tốn phục vụ tha nhân, kèm theo một lời nguyện tắt như sau: “Lạy Chúa. Con xin làm việc này để cầu cho một người lương tin yêu Chúa, để họ cũng được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ với con”. Làm như vậy là chúng ta tôn vinh Thiên Chúa như lời Chúa Giê-su: ”Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời" (Mt 5,16).

 

4. THẢO LUẬN: 1) Trước đây bạn có bị ai thù ghét làm hại hay không? Nếu có, bạn sẽ làm gì để thực hành Lời Chúa dạy tha thứ cho những kẻ thù ghét bách hại mình? 2) Bạn hãy đọc thuộc kinh Thương Người và xin Chúa ban ơn giúp chúng ta thực hiện tình thương tha nhân hằng ngày.

 

5. NGUYỆN CẦU

 

LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH.

 

Khi chúng con đi tìm kiếm Chúa trong nước mắt đau thương, xin hãy âu yếm gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên bà Ma-ri-a đang khóc bên mộ Chúa khi xưa.

 

Khi chúng con chán nản muốn bỏ Chúa, xin hãy đi với chúng con trên những đọan đường dài, như Chúa đã đồng hành với hai môn đệ trên đường về làng Em-mau.

 

Khi chúng con đóng cửa lòng vì sợ hãi, xin hãy đến ban sự bình an cho chúng con, như Chúa đã đến ban bình an cho các môn đệ vào chiều ngày phục sinh.

 

Khi chúng con đang hòai nghi bất tín, xin hãy tiếp tục kiên nhẫn và khoan dung với chúng con, như Chúa đã tỏ lòng khoan dung với sự cứng lòng của Tô-ma.

 

Khi chúng con gặp thất bại trong cuộc sống, xin hãy đến nâng đỡ ủi an chúng con, như Chúa đã đến phục vụ bánh và cá cho bảy môn đệ trên bờ biển hồ Ga-li-lê xưa.

 

Lạy Chúa Giê-su phục sinh, xin hãy tỏ mình ra cho chúng con thấy Chúa đang hiện thân nơi những người đau khổ cả về thể xác cũng như tâm hồn, để chúng con quảng đại chia sẻ cơm bánh vật chất và nhiệt tình phục vụ họ như phục vụ chính Chúa, hầu sau này chúng con sẽ được Chúa liệt vào hàng các chiên ngoan trong đoàn chiên Chúa.

 

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

 

LM ĐAN VINH - HHTM

 

 

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

 

CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH A.B.C

 

Cv 4.32-35 ; 1 Ga 5,1-6 ; Ga 20,19-31

 

TỪ KHÔNG TIN ĐẾN VỮNG TIN VÀ HĂNG HÁI LOAN TRUYỀN ĐỨC TIN

 

I.HỌC LỜI CHÚA

 

1. TIN MỪNG: Ga 20,19-31:

 

(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!”. (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha ; Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.(24) Một người trong Nhóm Mười Hai tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. (25) Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa! Ông Tô-ma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.(26) Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em”. (27) Rồi người bảo ông Tô-ma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”.(28) Ông Tô-ma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! “ (29) Đức Giê-su bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc cho những người không thấy mà tin!”.(30) Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ ; Nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. (31) Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.

 

2. Ý CHÍNH:

 

Tin Mừng Gio-an hôm nay tường thuật hai lần Đức Giê-su hiện ra với các tông đồ. Cả hai lần đều vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần và cách nhau một tuần lễ. Lần đầu Tô-ma vắng mặt, và lần sau có ông hiện diện. Khi hiện ra lần thứ hai, Đức Giê-su đã thỏa mãn đòi hỏi của Tô-ma đòi được “mắt thấy tai sờ”. Khi được Chúa Phục Sinh hiện ra, lập tức Tô-ma đã có đức tin và đã tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Sau đó, Đức Giê-su đã động viên các tín hữu về sau là những người chỉ có đức tin bởi nghe: “Phúc thay những người không thấy mà Tin!”.

 

3. CHÚ THÍCH:

 

- C 19-20: + Ngày thứ nhất trong tuần: Ngày nay, Giáo Hội đã chọn Ngày Thứ Nhất trong tuần để mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh và gọi là Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. Đây là ngày lễ nghỉ, thay thế Thứ Bảy (Sa-bát) của Do Thái Giáo. + Đức Giê-su đến: Đức Giê-su Phục Sinh hiện đến trong lúc phòng đóng kín. Điều này cho thấy thân xác phục sinh của Người có đặc tính thiêng liêng siêu việt, có khả năng hiện diện khắp nơi. + Bình an cho anh em! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa: Đức Giê-su Phục Sinh đem lại sự bình an (x. Ga 20,19.21) và niềm vui (x Ga 20,20) cho các môn đệ (x Ga 14,27). + Người cho các ông xem tay và cạnh sườn: Đức Giê-su Phục Sinh cũng là Đấng đã bị đóng đinh chân tay vào thập giá (x. Ga 19,18), và bị lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn (x. Ga 19,34). Điều này cho thấy có một dây liên kết giữa mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.

 

- C 21-23 + Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em: Tông đồ nghĩa là “được sai đi”. Sứ mạng này xuất phát từ Chúa Cha truyền cho Đức Giê-su, và giờ đây đến lượt Đức Giê-su Phục Sinh lại truyền cho các môn đệ và tất cả mọi tín hữu. + Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”: Theo Kinh Thánh, hơi thở chính là sự sống. Như xưa, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào con người A-đam và ban sự sống cho ông (x. St 2,7), thì nay, Đức Giê-su Phục Sinh cũng thổi Thần Khí cho các môn đệ. Rồi đến lượt các môn đệ lại sẽ ban sự sống thiêng liêng ấy cho các tín hữu. + “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”: Đức Giê-su được Gio-an Tẩy Giả giới thiệu là Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (Ga 1,29). Khi làm phép lạ chữa lành một người bại liệt, Đức Giê-su đã cho thấy Người có quyền tha tội (x. Mt 9,6). Trong bài Tin Mừng hôm nay, Người còn thiết lập bí tích giải tội, ban quyền tha tội cho các Tông đồ bằng việc thông ban Thánh Thần cho các ông. Từ đây các giám mục kế vị các Tông đồ sẽ tiếp tục thông ban quyền tha tội cho các linh mục là những cộng sự viên của các ngài.

 

- C 24-25: + Một người trong Nhóm Mười Hai tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô: Tô-ma là một trong Mười Hai Tông đồ (x. Mt 10,3). Biệt danh là “Sinh Đôi”. Tính tình bộc trực và can đảm (x. Ga 11,16). Ông ưa nêu ra thắc mắc khi Đức Giê-su đang giảng để được Người dạy rõ hơn (x.Ga 14,5). + Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người...: Tô-ma đòi được “mắt thấy tay sờ”, nghĩa là đòi một đức tin khả giác giống như một nhà khoa học thực nghiệm (x. Ga 20,25). + “... thì tôi chẳng có tin”: Nhiều môn đệ khác cũng cứng tin như thế. Tin Mừng nhất lãm đã nói tới sự cứng tin của các ông như sau: “Nhưng có mấy ông vẫn hoài nghi” (Mt 28,17) ; “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy” (Mc 16,14) ; Chúa phán: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng?” (Lc 24,38).

 

- C 26-27: + “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay thầy”. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy: Đức Giê-su đã thoả mãn những đòi hỏi của Tô-ma. + Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin: Đức Giê-su tuy khiển trách tội cứng lòng của Tô-ma, nhưng Người cũng thông cảm và chỉ kêu gọi ông từ bỏ cứng lòng để tin vào mầu nhiệm Phục sinh của Người.

- C 28-29: + Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”: Tô-ma là môn đệ cuối cùng tin Đức Giê-su sống lại, nhưng lại là người đầu tiên tuyên xưng nội dung đức tin đầy đủ nhất về Đức Giê-su: Người vừa là Chúa (Cứu Chúa), vừa là Thiên Chúa (Con Thiên Chúa). + Phúc thay những người không thấy mà tin”: Từ nay trở đi, đức tin và mầu nhiệm Phục Sinh không dựa trên kinh nghiệm khả giác về các lần hiện ra nữa, nhưng dựa trên lời chứng của các Tông đồ (x. Ga 19,35). Sau này các Tông đồ còn làm chứng về Đức Giê-su Phục Sinh bằng việc sẵn sàng chịu chết vì đức tin vào mầu nhiệm ấy.

 

4. CÂU HỎI: 1) Tại sao ngày nay Hội Thánh chọn Ngày Thứ Nhất trong tuần làm ngày Chúa Nhật thay vì ngày Thứ Bảy (Sabát) như đạo Do thái? 2) Việc Đức Giê-su Phục Sinh đến giữa các môn đệ tại nhà Tiệc ly đang khi cửa đóng kín cho thấy thân xác của Người sau khi sống lại có phẩm chất gì? 3) Qua lời chào chúc, Chúa Phục Sinh đến đã đem lại điều gì cho các môn đệ?4) Qua việc cho môn đệ xem tay và cạnh sườn, Chúa Phục Sinh muốn nói gì với các ông? 5) Sứ mệnh tông đồ thừa sai của Hội Thánh phát xuất từ đâu và vào lúc nào? 6) Tại sao Đức Giê-su lại thổi hơi ban Thần Khí cho các môn đệ? 7) Bằng chứng nào cho thấy Đức Giê-su có quyền tha tội và Người thiết lập bí tích Giải tội ban quyền tha tội cho Hội Thánh khi nào? 8) Tin Mừng cho biết gì về tông đồ Tô-ma? 9) Tô-ma và các tông đồ có dễ tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su hay không? 10) Khi hiện ra lần thứ hai, Chúa Giê-su đã làm gì để thỏa mãn đòi hỏi mắt thấy tay sờ của Tô-ma? 11) Cuối cùng Tô-ma đã đạt tới đức tin trọn vẹn qua lời tuyên xưng nào? 12) Ngày nay các tín hữu dựa vào đâu để tin vào mầu nhiện Phục Sinh của Chúa Giê-su? 13) Sự cứng lòng của Tô-ma và của các tông đồ có giá trị thế nào đối với đức tin của các tín hữu hôm nay?

 

II.SỐNG LỜI CHÚA

 

1. LỜI CHÚA: “Phúc thay những người không thấy mà tin(Ga 20,29).

 

2. CÂU CHUYỆN:

 

1) ĐỨC KI-TÔ CHỈ ĐƯỢC TÔN VINH SAU KHI TRẢI QUA TỬ NẠN THẬP GIÁ:

 

Một hôm do muốn cám dỗ thánh Mác-ti-nô phạm tội, nên quỷ đã hiện hình thành một ông vua oai phong và phán rằng “Hỡi Mác-ti-nô, Ta cám ơn con đã tin vào Ta, và Ta mong rằng từ nay con sẽ luôn ở bên Ta và vâng nghe lời Ta truyền dạy”.

 

Mác-ti-nô chăm chú nhìn ông vua giàu sang kia và hỏi: “Nhưng thưa ngài, ngài là ai vậy?”. Vua liền trà lời: “Ta là Vua Ki-tô đây !”

 

Mác-ti-nô lại hỏi: “Vậy những vết thương ở tay chân của Đức Ki-tô đã biến đi đâu cả rồi?” Vua liền đáp “Ta từ trời xuống, nên không cần đến các vết thương đó nữa !”

 

Bấy giờ Mác-ti-nô nói: “Tôi sẽ không bao giờ tin vào một Đức Ki-tô không chịu khổ nạn và tay chân không mang thương tích!” Tên vua quỷ nghe vậy liền biến mất.

 

Đức Ki-tô sau khi Phục sinh vẫn giữ những vết thương của cuộc khổ nạn. Khi hiện ra với Tô-ma, Chúa Phục Sinh đã cho ông xem những vết thương trên tay chân và cạnh sườn Người để chứng minh Người là Đấng đã trải qua cuộc khổ nạn thập giá và đã từ cõi chết trỗi dậy.

 

2) GIÁ TRỊ CỦA CÁC VẾT SẸO TRÊN THÂN MÌNH ĐỨC GIÊ-SU:

 

Một võ sĩ đã trở lại đạo Công giáo, ngày nọ gặp một người bạn thân. Anh bạn kia hỏi: “Tôi nghe nói anh mới theo đạo công giáo phải không? Thật là tức cười !”

 

Võ sĩ tân tòng liền đápi: “Sao lại tức cười? Đó là điều tốt mà anh”. Người bạn kia lại hỏi: “Nếu vậy, liệu anh có xoá nổi chân tướng con người du côn của anh trước đây không? Những vết sẹo còn lại trên khuôn mặt anh sẽ tố cáo con người thật của anh”.

 

Võ sĩ tân tòng trả lời: “Tôi không ngại chi về điều đó. Những vết sẹo là dấu vết của hành động bạo lực tội lỗi trước kia, thì nay lại trở thành cửa sổ giúp tôi đón nhận ơn Chúa. Thực vậy, những tội của tôi đã được Chúa thứ tha, nay tuy vẫn còn dấu vết, nhưng là dấu vết tình thương của Chúa. Người đã thương tôi và đã ban ơn cứu độ cho tôi”.

 

Khi hiện ra với các môn đệ, Chúa Phục Sinh đã giữ nguyên những vết sẹo để các ông có thể nhìn xem, sờ chạm và nhận ra Người. Khi hiện ra với Tô-ma, Chúa đã thỏa mãn đòi hỏi của ông khi phán: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." (Ga 20,27). Chúa Ki-tô Phục Sinh sẽ khó thuyết phục Tô-ma tin rằng Người đã từ cói chết sống lại nếu không cho ông xem các vết sẹo trên hai bàn tay, hai bàn chân và nơi cạnh sườn của Người.

 

3) “LẠY CHÚA LÀ THIÊN CHÚA CỦA CON”:

 

Trong tạp chí Guidepots, đã bài viết về bác sĩ SCOTT HARRISON, một chuyên viên phẫu thuật bàn tay. Trong một bài tác giả đã viết về bác sĩ này như sau: “Lần nào khi đang giải phẫu tay cho một người nào đó, ông cũng đều kêu lên vào một lúc nào đó: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”. Ông có thói quen nầy ngay từ hồi còn ở Việt Nam. Một đêm nọ, vừa rời trường Y, ông được kêu đi gắp một viên đạn bị kẹt trong tay một người lính dưới ánh sáng của ngọn đèn pin. Cuộc giải phẫu ấy đã để lại cho ông một cảm xúc sâu xa, đến nỗi sau khi cuộc chiến tranh kết thúc, ông đã quyết định học chuyên ngành giải phẫu bàn tay. Nhờ đi sâu vào lãnh vực chuyên môn nầy, ông đã thẩm định được cách sâu sắc cơn đau khủng khiếp do một vật lạ gây ra, chẳng hạn như một viên đạn. Khi vật ấy xuyên thủng lớp da, lớp gân và những sợi dây thần kinh nơi bàn tay một ngườim nhà phẫu thuật ấy thường giật thót người mỗi lần nghĩ đến cơn đau kinh khiếp mà Chúa Giê-su đã phải chịu khi đôi tay Người bị đóng đinh vào cây thập giá.

 

Khi chia sẻ bài Tin Mừng hôm nay, nhà phẫu thuật đã phát biểu như sau: “Tiếng kêu ‘Lạy Chúa là Thiên Chúa của con’ của tông đồ Tô-ma không chỉ là một lời tuyên xưng đức tin, mà còn là tiếng kêu đầy cảm thông của vị tông đồ này ông nhìn thấy dấu vết của đôi bàn tay bị xé toạc của Chúa Giê-su. Chỉ đến lúc đó, Tô-ma mới nhận thức được cơn đau đớn mà Người đã phải chịu đựng trên cây thập giá. Ông đã kết thúc bài nói chuyện như sau: “Mỗi lần thực hiện giải phẫu cho một ai đó, tôi luôn nhớ tới Chúa Giê-su đã từng chịu đóng đinh hai tay vào thập giá vì tôi. Khi ấy, cũng như Tô-ma, tôi đều phải thốt lên rằng : “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con”.

 

4) CÓ THIÊN  CHÚA KHÔNG?

 

Một bác học người Pháp muốn làm một cuộc nghiên cứu trong sa mạc. Ông chọn mấy người Ả rập làm hướng dẫn viên. Một buổi chiều, khi mặt trời sắp lặn, một người trong nhóm dẫn đường trải tấm thảm xuống cát và ngồi lên đó trong dáng điệu trầm tư. Thấy thế nhà bác học buộc miệng hỏi:

 

- “Ngươi làm gì thế?”

 

- “Dạ, tôi cầu nguyện,” người kia trả lời.

 

- “Cầu nguyện à, thời buổi này mà còn cầu nguyện sao? Vậy ra anh vẫn còn tin có Thiên Chúa? … Mà anh đã nhìn thấy Chúa chưa?” Nhà bác học như muốn bắt bẻ.

 

- “Dạ chưa.”

 

- “Vậy anh đã nghe Chúa nói chưa?”

 

- “Dạ chưa.”

 

- “Vậy anh đã sờ chạm vào Chúa chưa?”

 

- “Dạ chưa,” người hướng dẫn kiên nhẫn trả lời.

 

- “Nếu thế thì anh thật là một gã điên khi tin vào một Thiên Chúa mà chưa bao giờ thấy, không bao giờ nghe, và cũng chẳng bao giờ đụng chạm được.”

 

Sau đó mọi người vào lều nghỉ đêm. Sáng hôm sau, trước khi hừng đông, nhà thông thái vừa bước ra khỏi lều đã vội kêu lên:

 

- “Ồ, này mọi người ơi: Tối hôm qua đã có một con lạc đà đi ngang qua nơi này!”

 

Người hướng dẫn trợn mắt kinh ngạc:

 

- “Vậy chứ ngài đã nhìn thấy con lạc đà đó đi ngang qua đây sao ?”

 

- “Không,” nhà thông thái tự đắc trả lời.

 

- “Vậy chứ ngài đã đụng chạm vào nó à?”

 

- “Không.”

 

- “Vậy chứ ngài nghe thấy tiếng kêu của nó à?”

 

- “Không.”

 

Người hướng dẫn reo lên:

 

- “Thế thì ngài thực là một kẻ điên khi tin rằng có một con lạc đà đã đi ngang qua khu vực chúng ta ở, khi mắt ngài không thấy, tai ngài không nghe, và tay ngài không đụng chạm đến.”

 

Nhà thông thái đáp lại:

 

- “Nhưng ta biết được có con lạc đã ấy là nhờ những dấu chân của nó còn để lại trên mặt cát kìa.”

 

Ngay lúc đó mặt trời hừng đông bắt đầu mọc lên, toả muôn tia sáng rực rỡ lung linh. Người hướng dẫn liền chỉ tay về phía mặt trời và nói: “Thế thì tôi cũng nhìn vào dấu vết là mặt trời kia để quả quyết có một Thiên Chúa đang đi qua cuộc đời tôi.”

 

Ngày nay không ít người đã dựa vào những khám phá của khoa học để tuyên bố không có Thiên Chúa, mà chỉ con người mới là chúa của vũ trụ. Và niềm tin vào Thiên Chúa đang bị khoa học bóp chết. Thế nhưng, cùng lúc đó lại có rất nhiều người khác, nhờ những khám phá của khoa học, đã nhìn thấy nhiều điều bí ẩn, siêu việt trong thế giới này, mà trí khôn con người chỉ mới vén mở được một phần sự thật it ỏi. Từ đó họ đã nhận biết sự hiện hữu của một Đấng siêu việt trên tất cả, Đấng mà các tín hữu gọi là Thiên Chúa.

 

3. SUY NIỆM:

 

1) Từ không tin đến tuyên xưng đức tin của ông Tô-ma:

 

Tin Mừng Gio-an hôm nay tường thuật hai lần Đức Giê-su hiện ra với các tông đồ sau khi sống lại. Cả hai lần Chúa đều hiện ra vào buổi chiều Ngày Thứ Nhất trong tuần và cách nhau đúng một tuần lễ. Lần thứ nhất vắng mặt Tô-ma, và lần thứ hai có ông hiện diện với các anh em. Trước đó, Tô-ma đã tuyên bố sự cứng tin của mình khi đòi phải được “mắt thấy tay sờ” mới tin Thầy sống lại từ cõi chết. Do đó, trong lần hiện ra thứ hai, Chúa Giê-su đã thỏa mãn đòi hỏi của Tô-ma khi cho ông xem các vết đinh ở hai bàn tay bàn chân và vết thương do lưỡi đòng đâm thâu ở cạnh sườn Người. Bấy giờ Tô-ma đã đạt tới đức tin trọn vẹn qua lời tuyên xưng đức tin : Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”(Ga 20,28). Sau đó Đức Giê-su đã nhắn nhủ Tô-ma và qua ông, Người chúc phúc cho các tín hữu sau này: “Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà Tin!” (Ga 20,29).

 

2) Các môn đệ khác đạt được đức tin như thế nào ? :

 

Các môn đệ của Đức Giê-su không phải là những người dễ tin. Các Tin Mừng thuật lại diễn tiến đức tin của các ông như sau:

 

- Vào sáng ngày Thứ Nhất trong tuần, khi nghe bà Ma-ri-a bao tin xác Thầy biến mất, hai môn đệ Phêrô và Gio-an đã chạy đến mồ quan sát thực hư. Gio-an đã đạt tới đức tin trước các anh em nhờ nhìn thấy những tấm khăn liệm xác và các dây băng được xếp gọn để lại trong mồ. “Ông đã thấy và đã tin”. Đức tin đến với ông nhờ sự tư duy và trực giác (x Ga 20,1-8).

 

- Bà Ma-ri-a Mácđala ban đầu đã gặp được Chúa Phục Sinh, nhưng bà không nhận ra Người mà tưởng là người giữ vườn. Bà chỉ nhận biết Ngừơi khi Người gọi tên “Ma-ri-a” (Ga 20,16).

 

- Hai môn đệ làng Em-mau cũng chỉ nhận ra Chúa Phục Sinh sau khi đã được nghe Người giải thích Kinh thánh và chứng kiến việc Người bẻ bánh (x Lc 24,13-31).

 

-Bảy môn đệ rủ nhau đi đánh cá tại biển hồ Ga-li-lê đã nhận ra Chúa Phục Sinh do vâng lời Người nên đã bắt được mẻ cá lạ lùng (x Ga 21,1-14).

 

- Riêng ông Tô-ma trong Tin mừng hôm nay đã tin khi được Đức Giê-su thỏa mãn đòi hỏi “mắt thấy tay sờ” (x Ga 20,19-29).

 

- Tuy nhiên các môn đệ chỉ đạt tới đức tin trọn vẹn vào lễ Ngũ Tuần, sau khi các ông đã được gặp Chúa hiện ra nhiều lần. Nhất là sau khi các ông đã vâng lời Chúa cầu nguyện kết hiệp với Đức Ma-ri-a và các anh em Chúa trong Nhà Tiệc Ly và nhận được đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần (x Cv 2,1-12); Chính nhờ đón nhận được sức mạnh Thánh Thần từ trên cao, các ngài đã đạt được đức tin trọn vẹn và hăng say chu tòan sứ mệnh “loan báo Tin mừng » được ủy thác đến tận cùng thế giới”.(x Cv 1,8).

 

3) Làm thế nào để thuyết phục được nhiều người trong thế giới hôm nay tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su?

 

Như Tô-ma xưa, con người ngày nay cũng không dễ tin: họ luôn đòi phải được “mắt thấy tay sờ”, phải thấy được bằng chứng đáng tin. Do đó, các tín hữu chúng ta cần trình bày mầu nhiệm Chúa Phục Sinh bằng chứng tích đời sống của mình.

 

Thực vậy:

 

- Làm sao anh em lương dân có thể tin vào Chúa Phục Sinh, nếu không được xem những vết chai cứng nơi bàn tay lao động, những khuôn mặt ướt đẫm mồ hôi vì phục vụ những người nghèo khổ của các tín hữu chúng ta?

 

- Làm sao họ tin Chúa đã yêu thương chịu chết đền tội và sống lại để ban cho họ sự sống đời đời, nếu họ không nhìn thấy những dấu chỉ yêu thương quên mình phục vụ trong cộng đoàn Hội Thánh … như sách Công vụ đã thuật lại sinh họat của Hội Thánh Sơ Khai tại Giê-ru-sa-lem: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ Bẻ Bánh và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kính sợ, vì các Tông đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải , lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ Bẻ Bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ,. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được tòan dân thương mến. Và Chúa cho cộng đòan mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2,42-47).

 

- Yêu thương nhau là dấu hiệu môn đệ đích thực của Đức Giê-su: “Ở điểm này , mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Con người ngày nay luôn đòi phải được xem thấy những dấu chứng tình thương nơi các tín hữu như Đức Phaolô VI đã khẳng định: "Con người thời đại ngày nay thích nghe các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có nghe thầy dạy thì cũng bởi vì những thầy dạy này là các chứng nhân".

 

4) Thể hiện Lòng Chúa Thương Xót cụ thể là cách loan báo Tin Mừng hữu hiệu cho con người hôm nay:

 

Hội Thánh đã chọn Chúa Nhật II Phục Sinh hằng năm để kính Lòng Chúa Thương Xót, qua đó mời gọi các tín hữu chúng ta hãy noi gương Chúa thực hiện lòng thương xót đối với tha nhân nhất là những người nghèo khổ bất hạnh đang sống gần bên chúng ta.

 

- Mỗi người chúng ta cần tránh những lời nói, thái độ vụ luật và bất nhân của bọn Biệt Phái và Kinh Sư Do thái xưa đã bị Chúa nặng lời quở trách, nhờ đó anh em lương dân sẽ dễ dàng đón nhận đức tin vào Chúa hơn.

 

- Mỗi tín hữu chúng ta cũng cần thực hiện các việc bác ái cụ thể như kinh thương người, trong đó có 7 việc thương người về thể xác cần thực hiện như: Cho kẻ đói ăn; Cho kẻ khát uống; Cho kẻ rách rưới ăn mặc; Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc; Cho khách đỗ nhà: Chuộc kẻ làm tôi; Chôn xác kẻ chết.

 

- Cũng cần thực hiện lòng bác ái thương người cả về phạm vi linh hồn như: Lấy lời lành mà khuyên người; Mở dạy kẻ mê muội; An ủi kẻ âu lo: Răn bảo kẻ có tội; Tha kẻ dể ta; Nhịn kẻ mất lòng ta; Cầu cho kẻ sống và kẻ chết.

 

- Để có thể thực hành lòng thương người nói trên, mỗi người chúng ta nên quyết tâm làm một việc bác ái cụ thể như: chia sẻ cơm bánh và khiêm tốn phục vụ tha nhân, kèm theo một lời nguyện tắt như sau: “Lạy Chúa. Con xin làm việc này để cầu cho một người lương tin yêu Chúa, để họ cũng được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ với con”. Làm như vậy là chúng ta tôn vinh Thiên Chúa như lời Chúa Giê-su: ”Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời" (Mt 5,16).

 

4. THẢO LUẬN: 1) Trước đây bạn có bị ai thù ghét làm hại hay không? Nếu có, bạn sẽ làm gì để thực hành Lời Chúa dạy tha thứ cho những kẻ thù ghét bách hại mình? 2) Bạn hãy đọc thuộc kinh Thương Người và xin Chúa ban ơn giúp chúng ta thực hiện tình thương tha nhân hằng ngày.

 

5. NGUYỆN CẦU

 

LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH.

 

Khi chúng con đi tìm kiếm Chúa trong nước mắt đau thương, xin hãy âu yếm gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên bà Ma-ri-a đang khóc bên mộ Chúa khi xưa.

 

Khi chúng con chán nản muốn bỏ Chúa, xin hãy đi với chúng con trên những đọan đường dài, như Chúa đã đồng hành với hai môn đệ trên đường về làng Em-mau.

 

Khi chúng con đóng cửa lòng vì sợ hãi, xin hãy đến ban sự bình an cho chúng con, như Chúa đã đến ban bình an cho các môn đệ vào chiều ngày phục sinh.

 

Khi chúng con đang hòai nghi bất tín, xin hãy tiếp tục kiên nhẫn và khoan dung với chúng con, như Chúa đã tỏ lòng khoan dung với sự cứng lòng của Tô-ma.

 

Khi chúng con gặp thất bại trong cuộc sống, xin hãy đến nâng đỡ ủi an chúng con, như Chúa đã đến phục vụ bánh và cá cho bảy môn đệ trên bờ biển hồ Ga-li-lê xưa.

 

Lạy Chúa Giê-su phục sinh, xin hãy tỏ mình ra cho chúng con thấy Chúa đang hiện thân nơi những người đau khổ cả về thể xác cũng như tâm hồn, để chúng con quảng đại chia sẻ cơm bánh vật chất và nhiệt tình phục vụ họ như phục vụ chính Chúa, hầu sau này chúng con sẽ được Chúa liệt vào hàng các chiên ngoan trong đoàn chiên Chúa.

 

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

 

LM ĐAN VINH - HHTM

 

 

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

 

CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH B

Cv 3,13-15.17-19 ; 1 Ga 2,1-5a ; Lc 24,35-48

 

LÀM CHỨNG VỀ MẦU NHIỆM PHỤC SINH CỦA CHÚA GIÊ-SU

 

I.HỌC LỜI CHÚA

 

1.TIN MỪNG: Lc 24,35-48

 

(35)  Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh. (36) Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!”. (37) Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. (38) Nhưng Người nói: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?”. (40) Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. (41) Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không? (42) Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. (43) Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông. (44) Rồi Người bảo: Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm. (45) Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. (46) Và Người bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, (47) và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. (48) Chính anh em là chứng nhân của những điều này.

 

2.Ý CHÍNH:

 

Bài Tin Mừng của Thánh Lu-ca thuật lại sự kiện Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra lần thứ ba với các tông đồ tại nhà Tiệc Ly. Trước hết, Người củng cố đức tin của các ông đang nhát sợ vì tưởng gặp ma, bằng cách cho họ xem tay chân của Người bằng xương thịt, và Người  còn ăn uống trước mặt các ông. Sau đó, Người giúp các ông hiểu những lời Kinh Thánh tiên báo về cuộc khổ nạn và sự Phục Sinh của Đấng Ki-tô đã được ứng nghiệm nơi Người. Cuối cùng Người trao sứ mệnh cho các ông phải đi rao giảng sự ăn năn để được ơn tha tội, và làm chứng nhân của Chúa về những điều mắt thấy tai nghe.

 

3.CHÚ THÍCH:

 

- C 35-36: + Còn hai ông: Đây là hai trong số bảy mươi hai môn đệ của Đức Giê-su (x. Lc 10,1). Một trong hai ông tên là Cơ-lê-ô-pát (x. Lc 24,18). + Nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh: Bẻ bánh là cử chỉ của Đức Giê-su đã làm khi nhân bánh ra nhiều (x. Mt 14,19 ; 15,36), và trong bữa Tiệc Ly khi lập Bí Tích Thánh Thể (x. Lc 22,19). Nhờ cử chỉ bẻ bánh này mà hai môn đệ đã nhận ra người khách bộ hành chính là Thầy Giê-su đã chết và giờ đây sống lại.+ “Bình an cho anh em”: Là lời chào thông thường của người Do Thái (Sha-lom!). Nhưng lời này còn bao hàm sự chúc lành của Thiên Chúa. Sau khi sống lại, Đức Giê-su đã thực hiện lời Người hứa là ban bình an cho các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em” (Ga 14,27).

 

- C 37-39: + Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà !: Chân tay Đức Giê-su có những vết thương do đã bị quân lính đóng đinh vào thập tự (x. Lc 23,33). + Ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?: Đức Giê-su Phục Sinh đã chứng tỏ Người không phải hồn ma, khi cho các môn đệ xem Người có xương thịt như mọi người.

 

- C 40-43: + Người đưa tay chân ra cho các ông xem: Cũng như trong Tin Mừng Gio-an (x. Ga 20,20), Chúa Phục Sinh đã chứng tỏ Người chính là Đấng bị đóng đinh, đã chịu chết trên thập giá, mà nay sống lại và đang đứng trước mặt các ông. + Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng, Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông: Xem ra các vết thương ở tay chân vẫn chưa thuyết phục được các tông đồ tin Đức Giê-su đã thực sự sống lại, nên Người cho họ có thêm một bằng chứng Người không phải hồn ma, khi cầm lấy và ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông.

 

- C 44-45: + Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em: Đức Giê-su tiếp tục cho các môn đệ có thêm bằng chứng về việc Người đã từ cõi chết sống lại, bằng cách nhắc lại lời Kinh Thánh tiên báo đã được ứng nghiệm nơi Người.. + Sách luật Mô-sê, sách các Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh: Ở đây, Lu-ca lại kể ra Sách Thánh gồm các sách Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh. * Sách luật Mô-sê: Năm cuốn sách đầu của Thánh Kinh Cựu Ước, được xếp thành bộ Ngũ Thư gồm: Sách Sáng thế, sách Xuất hành, sách Lê-vi, sách Dân số và sách Đệ nhị luật. * Sách Ngôn Sứ: Ngôn sứ là người được Thiên Chúa gặp gỡ rồi sai đến để thay Chúa nói với dân Người, giúp dân Do Thái nhận ra lỗi lầm của họ, kêu gọi họ ăn năn trở về với Giao Ước. Nhưng sứ mạng quan trọng nhất là tuyên sấm về Đấng Mê-si-a (Thiên Sai) sẽ đến để ban ơn cứu độ. Bộ sách Ngôn sứ gồm 16 cuốn, trong đó có 4 Ngôn sứ lớn như: I-sai-a, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en và Đa-ni-en, và 12 Ngôn sứ nhỏ. Lớn hay nhỏ được phân biệt do các ngài đã để lại lời sấm ngôn của Chúa nhiều ít * Thánh vịnh: Là bộ sưu tập các bài thánh thi hay bài thơ tôn giáo từ thời Đa-vít đến thế kỷ thứ III trước Công nguyên. Đây là kho tàng kinh nguyện của Dân Chúa trong Cựu Ước cũng như Tân Ước. Có 150 Thánh vịnh đọc trong Giờ Kinh Phụng Vụ và Đáp Ca trong Thánh lễ.

 

- C 46-48: + Chính anh em là chứng nhân của những điều này: Là chứng nhân, nghĩa là loan báo Tin Mừng về những điều đã xảy ra trong cuộc đời Đức Giê-su, từ khi chịu phép rửa của Gio-an Tẩy giả, đến cuộc tử nạn, sống lại và lên trời của Người. Đặc biệt các ông còn sẵn sàng chịu chết để làm chứng cho những điều mình rao giảng là chân thực vì chính các ông đã được tận mắt chứng kiến.

 

4.CÂU HỎI: 1) Hai ông trong đoạn Tin Mừng này thuộc Nhóm 12 Tông đồ hay Nhóm 72 môn đệ ? 2) Đức Giê-su đã “bẻ bánh” mấy lần trong gần 3 năm giảng đạo? Bẻ Bánh ám chỉ bí tích nào trong 7 phép bí tích do Đức Giê-su thiết lập? 3) Lời chúc bình an của Chúa Phục Sinh có ý nghĩa thế nào? 4) Tại sao các môn đệ lại kinh hồn bạt vía khi nhìn thấy Chúa Phục Sinh hiện ra? 5) Chúa Phục Sinh đã nói và làm gì để các môn đệ khỏi bị sợ ma và tin Người đã từ cõi chết sống lại? 6) Khi nói với các môn đệ các bằng chứng về việc Người từ cõi chết sống lại, Chúa Giê-su đã nêu tên các sách Luật Mô-sê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh. Vậy ba loại sách này là những sách gì? 7) Lệnh truyền hãy đi truyền giáo gồm hai đặc tính quan trọng nào?

 

II.SỐNG LỜI CHÚA.

 

1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Chính anh em là chứng nhân của những điều này”(Lc 24,48).

 

2. CÂU CHUYỆN:

 

1) ĐI TRONG ÁNH SÁNG SẼ KHÔNG CÒN SỢ HÃI:

 

Một buổi tối nọ, trong căn nhà ấm cúng của một bác nông dân, ông bố âu yếm đưa mắt nhìn đứa con trai với vẻ hài lòng vì thấy con bắt đầu khôn lớn. Ông nghĩ đã đến lúc cậu con trai phải ra chuồng ngựa một mình vào ban đêm để cho ngựa uống nước. Sau đó ông bảo con hãy cầm đèn đi ra chuồng ngưạ một mình. Cậu con tỏ vẻ do dự thưa với cha:

 

- Bố ơi, con rất sợ bóng tối. Con sợ phải đi một mình.

 

Nghe con nói thế, ông liền đứng dậy tay cầm cây đèn và dắt con đi ra hè trước nhà. Ông thắp đèn lên đặt vào tay con và hỏi:

 

- Với đèn sáng này, con nhìn thấy rõ đến đâu?

 

Cậu trả lời: con thấy rõ tới nửa đường ra cổng.

 

Người cha bảo con hãy cầm đèn đi ra tới đó. Khi cậu con tới nơi, ông hỏi với theo: từ chỗ đang đứng đó con nhìn được tới đâu ?

 

- Con nhìn rõ tới cổng, cậu đáp.

 

Ông giục cậu đi cổng. Từ cổng cậu đã nhìn thấy chuồng ngựa, cậu nhìn thấy từng con ngựa. Từ hiên nhà, người cha nói vọng ra:

 

- Con hãy đổ nước vào máng cho ngựa uống rồi trở về nhà.

 

Cậu con làm theo và từ ngày đó cậu không còn cảm thấy sợ hãi khi phải một mình ra chuồng ngựa mỗi đêm nữa.

 

Khi thiếu niềm tin, người ta sẽ bị hoài nghi và sợ hãi. Cậu bé trong câu chuyện trên do thiếu tự tin nên sợ ở trong bóng đêm. Khi sợ hãi người ta sẽ cảm thấy bất an và dễ tưởng tượng bị ma quỷ hãm hại. Sợ hãi bóng tối là đặc tính của trẻ em. Can đảm thắng sự sợ hãi bóng tối là dấu hiệu của một con người trưởng thành.

 

2) EM BÉ NGỦ YÊN TRONG VÒNG TAY CHA:

 

Một cậu bé 5 tuổi bị thức giấc do tiếng sấm to trong một đêm giông tố. Cậu mở mắt thì thấy cảnh vật tối tăm. Từng đợt gió rít lên tạo thành những âm thanh gầm rú như đang giận dữ như muốn đạp đổ nhà cửa và cây cối. Cậu bé hốt hoảng cầu cứu cha:

 

- Ba ơi ! Con sợ quá !

 

- Ba đây ! Cậu nghe thấy có tiếng cha từ xa vọng lại.

 

- Ba đang ở đâu mà sao con không thấy ba ? Cậu giơ hai tay ra phía trước quờ quạng.

 

- Ba đây ! Người cha bước lại gần và ngồi xuống bên con. Cậu ôm lấy cha, áp đầu vào ngực cha. Người cha đã đỡ cậu nằm xuống và vỗ về cậu. Cậu bé yên lặng nắm lấy bàn tay của cha và chìm dần vào giấc ngủ an lành. Bên ngoài mưa bão vẫn còn, nhưng cậu không còn cảm thấy sợ khi ở trong vòng tay của Cha.

 

Trong cuộc sống hằng ngày, Chúa Phục sinh vẫn luôn ở trong và gần bên chúng ta như xưa Người vẫn luôn hiện diện bên các môn đệ. Người hằng mời gọi chúng ta tin cậy phó thác mọi sự trong bàn tay quan phòng của Người. Dù đời còn nhiều giông tố, nhưng nếu chúng ta vững tin và phó thác mọi sự trong tay Chúa quan phòng thì sẽ được bình an.

 

3) VỮNG TIN VÀO THIÊN CHÚA SẼ KHÔNG CÒN THẤY SỢ HÃI

 

Ma không ai thấy nhưng người ta lại tưởng tượng nó với nhiều hình thù thật đáng sợ nhất. Thế nên mới có tích chuyện xưa kể rằng:

 

Có người thợ được vua mời vào vẽ tranh cho vua. Vua hỏi: “Vẽ cái gì khó?”

 

Thưa: “Vẽ chó, vẽ ngựa khó”.

 

- Vẽ cái gì dễ?

 

- Vẽ ma, vẽ quỉ dễ.

 

- Sao lại thế?

 

- “Vì chó và ngựa ai cũng trông thấy, vẽ mà không giống thì sẽ bị người ta chê cười, cho nên khó vẽ. Ma quỉ là giống vô hình, không ai trông thấy, tuỳ ý muốn vẽ thế nào cũng được, không sợ ai bắt bẻ, cho nên dễ vẽ”.

 

Điểm chung của con ma thường là không đầu. Chân không chạm đất. Nó không xương không thịt nên có thể xuyên qua tường, xuyên qua nhà và tự do đi lại khắp nơi. Đôi khi thần hồn nhát thần tính khiến người ta nhìn người ra ma, “nhìn cò ra quạ” và khiếp nhược rụng rời tay chân.

 

Các tông đồ cũng chưa bao giờ trông thấy người chết sống lại. Niềm tin nơi các ông yếu kém nên nên chưa đủ để có thể hiểu được những gì đang diễn ra trước mắt. Vì thế, khi thấy Chúa Giê-su phục sinh hiện ra mà các ông vẫn hoài nghi và sợ hãi tưởng mình thấy ma, khiến Chúa Giê-su đã phải trấn an: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24,38).

 

4) BÁC TÀI XẾ TẮC-XI LÀM TÔNG ĐỒ:

 

Một vị linh mục sau chuyến đi du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một cách thức truyền giáo của một bác tài lái xe tắc-xi như sau:

 

“Ngày nọ, tôi đón tắc-xi từ khách sạn đi trung tâm thành phố Đài Bắc mua sắm quà lưu niệm. Tôi ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một tờ giấy ghi mấy dòng chữ như sau: “Bạn có thể thấy một vài quyển sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách đó theo khi rời khỏi xe mà không phải trả tiền mua sách”. Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy một chục cuốn sách mỏng bằng tranh nội dung về cuộc đời Đức Giê-su in trên giấy trắng khá đẹp; một ít sách truyện về các thánh và các danh nhân tôn giáo; một ít cuốn là những câu chuyện về việc sống đức tin giữa đời thường...

 

Ngoài ra, phía trên tấm kính chiếu hậu trước mặt tài xế cũng có một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi anh tài xế:

 

- Này bác tài, xin vui lòng cho tôi biết: Hành khách đi xe có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?

 

- Ồ, có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người cầm mang về nhà nữa.

 

Tôi hỏi tiếp:

 

- Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc sách do bác giới thiệu?

 

- Tôi cảm thấy rất sung sướng anh à! Anh biết không: tôi không có nhiều giờ để đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe kiếm sống. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất mừng vì có thể làm hai việc một lúc: Vừa lái xe lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không bị mất thêm thì giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm một công việc thật tuyệt vời!”

 

Một số hội đoàn Công giáo Tiến hành cũng đã phân phát cho các tài xế xe tắc xi ở Đài Bắc một tấm thẻ bọc lát-tích treo trước mặt tài xế. Trên tấm thẻ ở mặt trước có in hình cây Thánh Giá màu đỏ với dòng chữ: “Chúa đang cùng lái xe với bạn”. Mặt sau là lời cầu của các tài xế như sau: “Lạy Chúa, khi con lái xe, xin giúp con yêu mến tha nhân như chính bản thân con, để con không làm gì gây thiệt hại cho bất cứ ai. Xin cho con giữ đức công bình để không thu tiền cước xe quá giá, sẵn sàng trao trả đồ đạc khách bỏ quên trên xe. Xin cho đôi mắt con được tinh tường, cho tay chân con đuợc khéo léo để lái xe an toàn và tránh gây tai nạn. Xin cho tâm trí con luôn bình an và thần kinh con luôn thoải mái. Xin đừng để con lái xe khi uống rượu say không đủ tỉnh táo. Xin đừng để con nhiễm thói cạnh tranh bất chính với các bạn đồng nghiệp. Và cuối cùng xin Chúa giúp con luôn THƯỢNG LỘ BÌNH AN”.

 

3. SUY NIỆM:

 

1) Chúa Phục Sinh mang lại niềm tin yêu giúp vượt qua nỗi sợ hãi:

 

Tin Mừng hôm nay vừa kể lại: ngay trong buổi tối Phục Sinh, đang lúc các tông đồ họp nhau trong nhà, các cửa nhà Tiệc Ly đều đóng kín. Bất ngờ Chúa Giê-su hiện đến đứng giữa các ông khiến các ông hoảng hốt, tưởng mình thấy ma. Tuy nhiên, các tông đồ cho rằng mình thấy ma chứ không phải Thầy đã sống lại. Vì vậy, Chúa Phục Sinh đã cho các ông sờ vào thân xác mang thương tích của Người để xác định Người: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?”. Nói xong, Người giơ tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24,39-40). Và để giúp các ông vững tin hơn, Đức Giê-su còn ăn một miếng cá nướng trước mặt các ông. Nhờ gặp Chúa mà các tông đồ đã vững tin và không còn cảm thấy sợ hãi nữa.

 

Ngày nay chúng ta cũng sẽ vững tin nếu gặp được Chúa trong thánh lễ, trong giờ kinh tối gia đình hay những lúc cầu nguyện riêng tư. Hãy năng dự các buổi Hiệp Sống Tin Mừng hằng tuần để dễ thực hành theo Lời Chúa dạy. Nhờ đó chúng ta sẽ không bị ảo giác hồ đồ, nhưng sẽ nhận biết quyền năng của Chúa qua các biến cố may rủi giữa đời thường.

 

2) Chúa Phục Sinh mang lại niềm hân hoan hy vọng:

 

Các môn đệ đã bị lung lạc đức tin khi thấy Thầy Giê-su bị bắt bớ, bị giết chết đau thương trên cây thập gía, thì giờ đây khi gặp Chúa Phục Sinh, các ông đã tìm lại được niềm vui hân hoan.

 

Đức Giê-su thường quở trách các tông đồ về đức tin như sau: "Đừng sợ, hãy tin!"; "Vì sao sợ hãi, hỡi những kẻ yếu tin?"; "Thầy đây, đừng sợ!"; "Dọc đường hai ông nói chuyện gì với nhau mà buồn bã thế?”; “Hỡi những kẻ ngu dốt và chậm tin?"... Nhưng “Các ông đã vui mừng vì xem thấy Chúa”.

 

Người Ki-tô hữu sống đạo là người chứa đầy niềm vui và hăng say chiếu giãi niềm vui khi gặp được Chúa. Đức tin của chúng ta cũng chỉ lớn lên và không bị khiếp nhược sợ hãi bóng tối nếu chúng ta vững tin vào sự phục sinh của Chúa như Người đã động viên các tông đồ: "Các con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian rồi".

 

3) Chúa Phục Sinh ban Thần Khí giúp chu toàn sứ mệnh loan báo Tin Mừng:

 

Trong Tin Mừng những người đã được phúc gặp Chúa Phục sinh, đều mau mắn chu toàn lệnh truyền của Chúa, là loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho tha nhân. Chẳng hạn: Mấy người phụ nữ sau khi gặp Chúa Phục Sinh đã trở về báo tin vui cho các môn đệ rằng: “Chúa đã sống lại”. Hai môn đệ về làng Emmaus, sau khi nhận ra Chúa Phục Sinh khi Người bẻ bánh, đã lập tức trỗi dậy trở về thủ đô Giêrusalem, loan báo tin vui cho các anh em khác: “Chúa đã sống lại rồi và chúng tôi đã nhận ra Người khi Người bẻ bánh”. Các Tông đồ sau khi đã đón nhận đầy ơn Thánh Thần vào lễ Ngũ Tuần, đã mở tung cửa nhà Tiệc Ly ra đường để rao giảng Tin Mừng cho dân chúng thuộc mọi nước mọi dân ở thủ đô Giê-ru-sa-lem. Các ông còn sẵn sàng hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa.

 

Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã loan báo Tin Mừng Phục sinh cho tha nhân như thế nào?

 Chúng ta đã làm gì để trở thành chứng nhân cho tin mừng Phục Sinh?

 

4) Phải làm chứng Chúa đã phục sinh như thế nào trong xã hội hôm nay ? :

 

Ngày nay các tín hữu dù không thấy Chúa, nhưng vẫn có thể thi hành sứ mệnh làm chứng cho Người bằng các phương thế như sau:

 

+ Làm chứng bằng việc thuật lại cho người khác về cuộc đời và lời rao giảng của Đức Giê-su: như bà Ma-ri-a Mác-đa-la đã làm (Ga 20,18). Việc truyền đạt này mọi tín hữu đều có thể làm, nhưng nguyên việc này khó lòng mang lại hiệu quả để thuyết phục được người nghe tin theo (x. Lc 24,11).

 

+ Làm chứng bằng cách để Chúa Thánh Thần nói với tha nhân qua chúng ta: Đức Giê-su đã từ cõi chết sống lại và chúng ta nhờ ơn Thánh Thần ban, có bổn phận chia sẻ niềm vui và sự bình an mình cảm nghiệm được cho tha nhân. Cách làm chứng này đã được Nhóm Mười Một Tông đồ áp dụng. Sau khi đón nhận Thánh Thần, ông Phê-rô đã rao giảng và làm chứng về Đức Giê-su như sau: “Chính Đức Giê-su đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại. Về điều này tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống. Đó là điều anh em đang thấy đang nghe…” (Cv 2,32-33). Nhờ ơn Thánh Thần tác động, cách làm chứng đầy xác tín này của ông Phê-rô đã khiến ba ngàn người xin theo đạo (x. Cv 2,41).

 

+ Làm chứng bằng lối sống quên mình, vị tha bác ái: noi gương cộng đòan Hội Thánh sơ khai như sách Công vụ thuật lại: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kính sợ, vì các Tông đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được tòan dân thương mến. Và Chúa cho cộng đòan mỗi ngày thêm những người được cứu độ” (Cv 2,42-47). Cách làm chứng này hữu hiệu và rất phù hợp với các cộng đoàn tu sĩ, các hội đoàn công giáo tiến hành và các cộng đoàn giáo xứ giáo họ.

 

+ Cuối cùng, làm chứng cho Đức Giê-su bằng việc sẵn sàng chịu bách hại vì đức tin, noi gương các anh hùng tử đạo: Các ngài đã không hèn nhát chối Chúa để được sống, nhưng đã sẵn sàng chịu chết vì đức tin để trở thành những “Chứng nhân đức tin”. Đây cũng là phương cách truyền giáo hữu hiệu như lời ông Téc-tuy-li-a-nô đã nhận định: “Máu các vị Tử đạo là hạt giống phát sinh các Ki-tô hữu”.

 

Ngày nay tuy chúng ta không bị giết hại vì đức tin như các anh hùng Tử Đạo Việt Nam, nhưng chúng ta cũng có thể  trở nên chứng nhân đức tin khi can đảm sống vị tha bác ái giữa một xã hội gian ác như lời Chúa phán: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà ngợi khen Cha của anh em Đấng ngự trên trời”.

 

4. THẢO LUẬN: Hôm nay bạn sẽ áp dụng phương cách truyền giảng Tin Mừng cụ thể nào để giúp các bạn học cùng trường, các người hàng xóm, bạn đồng nghiệp được tin vào Chúa và được hưởng ơn cứu độ của Chúa với chúng ta.

 

5. NGUYỆN CẦU

 

- LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH.

 

Giữa một thế giới chỉ biết tìm kiếm hưởng thụ tiện nghi vật chất và thỏa mãn các đam mê khoái lạc. Xin cho chúng con biết chấp nhận lối sống đơn sơ khó nghèo như lời Chúa dạy: “Chồn cáo có hang, chim trời có tổ. Con người không có hòn đá gối đầu”.

 

Giữa một thế giới khinh thường và chà đạp nhân phẩm những người nghèo khó bất hạnh. Xin cho chúng con biết quý trọng mọi người và sẵn sàng phục vụ Chúa đang hiện thân nơi những người đau khổ bệnh tật và bị bỏ rơi.

 

Giữa một thế giới sống không lý thưởng, không có niềm hy vọng vào tương lai. Xin cho chúng con biết vững tin vào quyền năng và tình thương của Chúa và tích cực góp phần xây dựng một “Trời Mới Đất Mới” công bình nhân ái và hạnh phúc ngay từ ngày hôm nay.

 

- LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH.

 

Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa đã củng cố đức tin của các tông đồ bằng việc cho xem tay chân đã từng bị đóng đinh trên cây thập giá và còn ăn uống trước mặt các ông. Rồi khi các ông đã tin, Chúa lại trao sứ mệnh làm tông đồ cho các ông. Xin giúp chúng con hôm nay biết ăn năn sám hối tội lỗi và quảng đại chia sẻ cơm áo tiền bạc cho những người nghèo đói, thăm viếng an ủi những người đau liệt, tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng con... để chúng con trở nên những tông đồ giáo dân nhiệt thành làm chứng cho Chúa ngay trong môi trường sống và làm việc của chúng con.

 

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

 

LM ĐAN VINH - HHTM

 

 

 

 

 

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

 

CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH B

Cv 4,8-12 ; 1 Ga 3,1-2 ; Ga 10,11-18

CHO CHIÊN ĐƯỢC SỐNG VÀ SỐNG DỒI DÀO

 

I. HỌC LỜI CHÚA

 

1. TIN MỪNG: Ga 10,11-18

 

(11) Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. (12) Người làm thuê vì không phải là Mục Tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn. (13) Vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiết gì đến chiên. (14) Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi. (15) Như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. (16) Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. (17) Sỡ dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. (18) Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh chính mình. Tôi có quyền hy sinh và lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh Cha tôi mà tôi đã nhận được.

 

2. Ý CHÍNH: Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã tự ví mình như vị Mục Tử nhân lành. Sự nhân lành của người Mục Tử được biểu lộ qua 3 hành động sau: Một là biết rõ từng con chiên và cũng được chiên nhận biết và đi theo. Hai là quan tâm đến cả đoàn chiên, nhất là những con chiên bị đau ốm, thương tích hay đi lạc đàn. Ba là sẵn sàng thí mạng mình đương đầu với sói rừng để bảo vệ đoàn chiên.

 

3. CHÚ THÍCH:

 

- C 11-13: + Tôi chính là: Đây là kiểu nói của Thiên Chúa khi mặc khải danh xưng: “Ta là Đấng Hiện Hữu” (Xh 3,14). Đức Giê-su cũng nhiều lần dùng kiểu nói này: “Tôi Hằng Hữu”(Ga 8,24.28); “Chính tôi là Bánh trường sinh” (Ga 6,35), “Tôi là Bánh từ trời xuống” (Ga 6,41) ; “Tôi là ánh sáng thế gian” (Ga 8,12 ; 9,5); “Tôi là cửa cho chiên ra vào” (Ga 10,7.9) ; “Tôi chính là Mục tử nhân lành” (Ga 10,11.14) ; “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25) ; “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6) ; “Thầy là cây nho thật... Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15,1.5). + Mục Tử nhân lành: Mục Tử là người chăn chiên. Mục tử là hình ảnh diễn tả tình thương bao la của Thiên Chúa đối với dân Ít-ra-en như lời tuyên sấm của ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm. Con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về. Con nào bị thương, Ta sẽ băng bó ;Con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh. Con nào béo mập, con nào khỏe mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” (Ed 34,15-16). Thiên Chúa cũng dùng một số mục tử để chăn dắt dân Ít-ra-en như Mô-sê (x. Is 63,11), Đa-vít (x. Tv 78,70-71). Có hai loại mục tử là mục tử tốt và mục tử xấu (x. Gr 10,21). Thiên Chúa hứa ban một mục tử dòng dõi Đa-vít, luôn làm đẹp lòng Người sẽ đến (x. Gr 23,4-6) là Đức Giê-su (x Ga 10,11). + Hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên: Đây là khác biệt quan trọng giữa mục tử chân chính với kẻ chăn thuê. Hy sinh mạng sống cho người mình yêu là dấu hiệu của một tình yêu tột đỉnh (x. Ga 15,13). + Người làm thuê không phải là mục tử: Người chăn thuê ám chỉ các đầu mục Do thái như các kinh sư, Pha-ri-sêu giả hình (x. Mt 23,2), các ngôn sứ giả (x. Mt 24,11). Họ thường có thái độ hèn nhát và vô trách nhiệm (x. Ga,12-13), chỉ lo tìm tư lợi, dẫn đường sai lạc, nói mà không làm và đạo đức giả (x. Mt 23,14.16.25.28).

- C 14-16: + Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi: Từ ngữ “biết” trong Kinh Thánh không những là sự hiểu biết về mặt kiến thức, mà còn nói lên mối quan hệ mật thiết: Biết điều gì nghĩa là có kinh nghiệm cụ thể về điều đó. Biết người nào là có quan hệ mật thiết với người đó (x. Lc 1,34). Đức Giê-su biết các tín hữu là chiên của Người, và họ cũng biết Người là Mục Tử của họ và họ luôn vâng nghe lời Người. + Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này: Sự quan tâm của Mục Tử nhân lành còn phổ biến đến hết mọi dân tộc qua các môn đệ của Người. Sứ mạng loan Tin Mừng và làm chứng cho Người được trao cho các môn đệ là đại diện của Giáo Hội và cũng là sứ mạng của mỗi tín hữu (x. Mt 28,19; Cv 1,8). + Sẽ chỉ có một đoàn chiên và một Mục Tử: Nhờ sự chết của Đức Giê-su trên cây thập giá, biên giới ngăn cách giữa Do Thái và dân ngoại đã bị phá hủy (x. Gl 3,28). Từ nay mọi người thuộc mọi dân tộc đều có thể gia nhập vào đoàn chiên của Chúa Giê-su, vì Người đã đổ máu ra để cứu chuộc toàn thể nhân loại (x. 1 Tm 2,4).

 

- C 17-18: + Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi: Khi hiển dung trên quả núi cao, Đức Giê-su đã được Chúa Cha công nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17;17,5).. + Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình: Việc Đức Giê-su chịu chết không phải do ý muốn của các đầu mục Do Thái, do ý của tổng trấn Phi-la-tô, Giu-đa, quân lính và dân chúng... Nhưng là do Người tự ý chấp nhận vâng phục thánh ý Chúa Cha (x. Mt 26,39) vào “GIỜ” Con Người được tôn vinh (x. Ga 12,23). + Để rồi lấy lại: Đức Giê-su đã báo cho các môn đệ biết trước: Người sẽ đi lên Giê-ru-sa-lem, chịu đau khổ, sẽ bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại (x. Mt 16,21), nhờ quyền năng của Thiên Chúa (x. Cv 2,32-33).

 

4. CÂU HỎI: 1) Mục tử là gì? 2) Ba đặc điểm của người mục tử tốt lành là gì? 3) Đức Giê-su nhiều lần tự khẳng định về mình qua những câu nào trong Tin Mừng? 4) Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm Thiên Chúa chính là Mục Tử nhân lành của dân Ít-ra-en trong câu nào? 5) Trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã đặt những vị nào làm mục tử để thay Ngài chăn dắt dân Ít-ra-en? 6) Khác biệt quan trọng nhất giữa mục tử tốt với kẻ chăn thuê là gì?  7) Đức Giê-su quở trách các đầu mục dân Do thái vốn là những kẻ chăn thuê vì những tội nào? 8) Ý nghĩa sâu xa của từ “biết” trong Thánh Kinh là gì? 9) Tin mừng ghi lại hai lần Đức Giê-su được Chúa Cha xác nhận là Con yêu dấu như thế nào? 10) Đức Giê-su đã tình nguyện chọn thi hành sứ mệnh cứu thế bằng con đường chịu khổ nạn theo thánh ý Chúa Cha trong câu nói nào?

 

II. SỐNG LỜI CHÚA

 

1. LỜI CHÚa: “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11).

 

2. CÂU CHUYỆN:

 

1) QUO VADIS ? - THẦY ĐI ĐÂU ?

 

Thời hoàng đế NÊ-RÔNG ra tay bách hại đạo công giáo. Thủ đô Rô-ma ngập tràn máu lửa: biết bao tín hữu đã bị giết chết dưới bàn tay của bạo chúa tàn bạo điên loạn.

 

Giáo hội non trẻ do Đức Giê-su thiết lập như sắp bị tan tác tiêu diệt. Phê-rô là trụ cột của Giáo hội. Các tín hữu đã tha thiết xin ông trốn khỏi Rô-ma, để có thể tiếp tục lãnh đạo đoàn chiên. Đề nghị này khiến tông đồ Phê-rô phân vânm vì đoàn chiên chắc sẽ bị nao núng nếu mất đi chủ chiên? Thầy Giê-su đã chẳng khuyên các môn đệ: khi người ta bắt chúng con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác đó sao? Thế là Phê-rô đã mang theo bị gậy và hóa trang để trốn ra khỏi thành. Nhưng rồi ông lại gặp Chúa Giê-su Phục Sinh đang đi vào thành nên ông hỏi:

 

- Quo vadis, Domine ? Lạy Chúa, Chúa đi đâu vậy ?

 

Chúa Giê-su Phục Sinh trả lời :

 

- Ta đi vào trong thành để chịu đóng đinh thêm một lần nữa. Nói xong Chúa biến mất.

 

Hiểu ý Thầy, nên Phê-rô đã quay trở vào thành Rô-ma để động viên an ủi đoàn chiên đang bị bách hại. Sau cùng ông đã bị bắt và bị đóng đanh ngược đầu để nêu gương chết vì lòng mến Chúa cho đoàn chiên.

 

2) MẸ TÌNH NGUYỆN CHẾT THAY CHO CON

 

Trên một tạp chí y học ở Ac-hen-ti-na, bác sĩ GIĂNG COÓC-TÊ (Jean Cortez) đã kể lại một trường hợp đặc biệt mà chính ông chứng kiến. Ông đang điều trị cho một bé gái tên là Ăng-gien (Angel). Em bị ung thư bao tử, một bệnh rất hiếm gặp nơi trẻ em. Sau khi giải phẫu và điều trị đủ cách, ông đành phải báo tin buồn cho bà mẹ của bé về sự bất lực của mình trước căn bệnh hiểm nghèo này, và tuyên bố bé Ăng-gien đã chết! Bà Ma-ri-a mẹ em bé gần như hóa điên khi nghe tin dữ ấy. Bà nhất quyết không cho ai đụng vào thi thể của con, và bà quỳ cầu nguyện nhiều giờ bên giường của con. Bác sĩ Coóc-tê rất xúc động khi nghe bà cầu xin được chết thay cho con. Ông cùng mọi người im lặng ra ngoài để bà một mình với đứa con đã chết.

 

Nửa tiếng đồng hồ sau, mọi người lại vào phòng và rất ngạc nhiên khi thấy bé Ăng-gien bây giờ đã khỏe lại. Gương mặt em rạng rỡ vui vẻ như không bị bệnh tật gì. Em đang ngồi trên giường, còn mẹ em thì nằm gục bên cạnh giường và sắp chết. Bà thều thào nói với bác sĩ rằng: “Thưa bác sĩ, tôi rất mừng được Chúa thương nhậm lời cầu của tôi là cho tôi được chịu bệnh thay cho con tôi!”. Bấy giờ bác sĩ Coóc-tê lập tức cho tái xét nghiệm và kết quả là bé Ăng-gien đã hoàn toàn bình phục, còn bà Ma-ri-a thì lại bị mắc chứng bệnh bao tử của em mà trước đó bà chưa hề mắc phải. Thân nhân xúm lại xung quanh bà Ma-ri-a để động viên an ủi bà và hứa sẽ nhận bé Ăng-gien làm con và sẽ chăm sóc nuôi dạy bé nên người tốt sau này. Vài giờ sau bà Ma-ri-a đã ra đi trong bình an. Bà được mọi người kính phục vì tình mẫu tử cao quý bà dành cho con.

 

Bác sĩ Coóc-tê kết luận: “Tôi không thể giải thích tại sao lại có thể xảy ra như thế được! Vì rõ ràng trước đó cô bé Ăng-gien đã chết. Có thể có một thần lực siêu phàm nào đó đã tác động và hoán chuyển căn bệnh quái ác từ đứa con sang bà mẹ!”.

 

3) MUC TỬ NHÂN LÀNH HY SINH CHỊU CHẾT VÌ ĐOÀN CHIÊN

 

Đức cha RÔ-MÊ-RÔ, Tổng Giám Mục San Salvador ở Trung Mỹ đã cương quyết phản đối chính phủ đã vi phạm nhân quyền, khi ủng hộ giới địa chủ và đại tư sản để áp bức bóc lột nông dân, mà tuyệt đại đa số là người Công Giáo (98%). Đức cha đã can đảm đứng về phía nông dân để bênh vực quyền lợi cho họ, dù biết rằng hành động như thế có thể đưa ngài đến chỗ bị cầm tù và bị giết chết nữa. Nhưng, giống như Chúa Giê-su, vị Mục Tử nhân lành, Đức cha Rô-mê-rô đã sẵn sàng chịu chết, hiến mạng sống mình để “đoàn chiên được sống và sống dồi dào”.

 

Ngày 24/3/1980, một tay súng chuyên bắn thuê đã hạ sát Đức cha Rô-mê-rô trong lúc ngài đang cử hành thánh lễ trong nhà thờ với đoàn chiên, khiến ngài đã tắt thở ngay tại chỗ. Chỉ trước đó vài phút, ngài đã giảng một bài thật hùng hồn về niềm hy vọng tràn đầy vào hạnh phúc vĩnh cửu của con cái Chúa; trong đó, ngài tha thiết khuyên giáo dân hãy hy sinh phục vụ tha nhân theo mẫu gương hy sinh của Chúa Ki-tô.

 

Từ ngày Đức Tổng Giám Mục Ro-me-no tranh đấu đòi nhân quyền cho giáo dân bị áp bức, ngài đã ý thức rằng tính mạng của ngài đang bị đe dọa. Một lần kia ngài đã quả quyết với các phóng viên rằng: "Mặc dầu kẻ thù có giết chết tôi, tôi cũng sẽ "trỗi dậy" giữa dân của tôi". Bởi vì Đức Tổng Giám Mục rất thương mến giáo dân của Ngài tại San Salvador, và chính vì thế, ngài đã sẵn sàng chịu chết để bênh vực quyền lợi cho họ. Ngài đã sống lời Chúa phán trong Tin Mừng hôm nay: "Ta là Mục Tử nhân lành, Mục Tử nhân lành đã hiến mạng sống mình vì đoàn chiên... Ta biết chiên của Ta và Ta hiến mạng sống vì chiên của Ta".

 

4) NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA CÁC MỤC TỬ THỜI ĐẠI MỚI:

 

Linh mục là người mục tử được Chúa trao sứ vụ chăn dắt đoàn chiên về phần linh hồn.

- “LINH MỤC, NGƯỜI LÀ AI?”: Văn hào Giu-ăng A-ri-a (Juan Arias) viết: “Lạy Chúa, Linh mục là ai? Đối với nhiều người: Ông ta là một người cô độc ích kỷ. Đối với nhiều người khác: Ông ta là thứ trai già vô tích sự, một nhân viên bàn giấy của tôn giáo”. Người nghèo tỏ vẻ bực bội khi thấy Linh mục hay tiếp xúc với người giàu có và rủa Linh mục là “đồ tư bản chết tiệt!”. Nếu linh mục hiến thân chuyên lo phục vụ người nghèo ít học, người bệnh tật, cô đơn... thì người ta lại ganh ghét và gọi Linh mục là “Đồ tả khuynh bần tiện!”.

 

Làm Linh mục thời đại ngày nay thật không đơn giản chút nào!

 

- “MỘT NGƯỜI LUÔN LUÔN SAI LẦM” (He is always wrong): Đây là tựa đề của một bài báo nhỏ nói lên sự cảm thông đối với các Linh mục là chủ chăn thời nay như sau:

 

* Giảng ngắn dưới 10 phút: “Ông Linh mục này lười không chịu dọn kỹ bài giảng!”.

 

* Giảng quá 20 phút:  “Ông ta là ưa nói dai và nói dài!”

 

* Nếu giảng với giọng bình thường: “Ông ta có biệt tài dỗ ngủ cho người bị khó ngủ!”

 

* Nếu giảng hùng hồn: “Ông ta la lối om sòm thật bất kính với Chúa đang ngự trong nhà chầu!”

 

* Nếu năng đến thăm các gia đình trong giáo xứ: “Ông ta chẳng có việc gì để làm, suốt ngày la cà hết nhà này sang nhà nọ để kiếm chác! chẳng mấy khi thấy ông ta có mặt ở nhà để tiếp xúc với các người cần gặp hay để đi thăm kẻ liệt!”.

 

* Nếu ít đi thăm: “Ông ta chẳng quan tâm để biết con chiên của mình sống chết ra sao!”.

 

* Nếu linh mục còn trẻ: “Ông ta mới ra trường nên tay nghề còn non và chưa có kinh nghiệm mục vụ!”.

 

* Nếu đã cao niên: “Một lão già lẩm cẩm hủ lậu! Ông ta nên sớm về hưu đi là vừa!”

 

Thật đúng như người đời thường nói: “Ở sao cho vừa lòng người: Ở rộng người cười ở hẹp người chê”. Làm Linh mục thật không dễ chút nào phải không các bạn ?”.

 

3. THẢO LUẬN: Bạn sẽ làm gì để trở nên chiên ngoan trong đoàn chiên do các mục tử được Chúa sai đến chăm sóc?

 

4. SUY NIỆM:

 

1) Về hai loại mục tử trong Hội Thánh:

 

Mục tử là người lãnh đạo và chăn dắt đoàn chiên. Trong Tin mừng hôm nay Đức Giê-su đã phân biệt hai loại mục tử là: mục tử chân chính và mục tử giả hiệu như sau:

 

- Mục tử chân chính là chủ chiên thực sự của đoàn chiên noi gương Đức Giê-su như Người khẳng định: "Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi" (10,14). Đức Giê-su đã hy sinh quên mình cho đoàn chiên: Người đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời (x Mt 13,1-9), làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế, sẵn sàng chịu chết trên cây thập tự để đền tội thay cho đoàn chiên như Người đã nói: «Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên» (Ga 10,11). Điều Đức Giê-su luôn quan tâm là lo cho «chiên được sống và sống dồi dào» (Ga 10,10). Sống dồi dào về thể xác bằng cách chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền cho dân (x. Mt 8,16-17), xua trừ ma quỷ (x. Mt 9,32-34), nhân bánh ra nhiều để nuôi đám đông đang đói (x. Mt 14,15-21). Dồi dào về tinh thần như nhiệt thành trong sứ vụ rao giảng Tin mừng Nước Trời, thiết lập bảy phép bí tích, bao dung tha thứ tội lỗi, rửa chân phục vụ môn đệ, đổ Thần Khí trên các tông đồ… noi gương Mục Tử nhân lành Giê-su.

 

- Mục tử chăn thuê, ám chỉ các đầu mục dân Do Thái đương thời gồm các kinh sư, người Pha-ri-sêu và các tư tế phục vụ Đền thờ. Những người này không phải là chủ chiên thực sự nên «không thiết gì đến chiên» (10,13). Họ tỏ thái độ vô trách nhiệm trước sự an nguy của đoàn chiên: «Khi thấy sói đến, họ bỏ chiên mà chạy», để «sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn» (10,12). Đối với hạng mục tử này, đoàn chiên chỉ có giá trị lợi dụng để phục vụ cho họ, như ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm lời Đức Chúa cáo trách các mục tử chăn thuê của Ít-ra-en như sau: «Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Sữa chiên thì các ngươi uống, len thì các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, nhưng đoàn chiên thì lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc» (Ed 34,2-4).

 

2) Mục tử lý tưởng cho Hội Thánh hôm nay:

 

Đức Thánh Cha Phan-xi-cô quan niệm mục tử lý tưởng cho Hội Thánh hôm nay phải là người có “mùi chiên”, gần gũi với con chiên; Là người cha, người anh em với sự hiền dịu, kiên nhẫn và đầy lòng thương xót; Là người có lối sống khó nghèo, sự khó nghèo nội tâm cũng như khó nghèo bề ngoài như sống đơn giản khắc khổ trong cuộc sống; Là những người không có "tâm lý của các ông hoàng"; Là những người không có tham vọng làm phu quân của Giáo Hội; Là những người có khả năng thức tỉnh đoàn chiên được giao phó, và quan tâm duy trì sự hiệp nhất, canh giữ đoàn chiên, chú ý tới các hiểm nguy có thể đe dọa đoàn chiên, làm cho niềm hy vọng được lớn lên.

 

Ước gì các Mục Tử luôn có mặt trời và ánh sáng trong trái tim mình. Là những người có khả năng hỗ trợ Thiên Chúa nơi dân Người, với tình yêu thương và lòng kiên nhẫn.

 

Cuối cùng để chu toàn sứ vụ chăn dắt, vị mục tử có ba vị trí trong đoàn chiên như sau: Một là đi phía trước để dẫn đường; Hai là đi giữa để duy trì sự hiệp nhất và giữ vững tinh thần của đoàn chiên; Ba là đi phía sau để tránh cho chiên khỏi bị tụt hậu, và tạo điều kiện cho chiên đánh hơi hầu tìm ra hướng đi mới cho đoàn.

 

3) Ngày Thế giới Cầu Nguyện Cho Ơn Thiên Triệu:

 

Hiện nay trên thế giới nhất là tại các nước Âu Mỹ đang thiếu ơn gọi linh mục và tu sĩ cách trầm trọng. Nhiều nhà thờ không có linh mục coi sóc, nhiều tu viện to lớn bị bỏ hoang vì không còn tu sĩ trẻ tiếp nối, nên Giáo Hội đã chọn ngày Chúa Nhật 4 Phục Sinh làm ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho Ơn Thiên Triệu.

 

Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng thiếu ơn gọi này như sau:

 

- Một là vì những gương mù gương xấu từ hàng giáo sĩ và tu sĩ: thái độ sống thiếu khiêm tốn, thiếu đạo đức, thiếu khôn ngoan, thiếu lịch sự, thiếu nhân bản và thiếu cả bác ái của một số linh mục và tu sĩ, nên ít được mến phục và đi theo con đường này.

 

- Hai là thiếu sự cảm thông và cộng tác với các vị chủ chăn nơi các tín hữu.

 

- Ba là thiếu cầu nguyện cho ơn thiên triệu như lời Chúa Giê-su: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy anh em hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người” (Lc 10:2).

 

4) Cụ thể chúng ta nên làm gì?

 

a) Đối với các linh mục tu sĩ:

 

- Hãy luôn khiêm tốn yêu thương thể hiện qua thái độ lịch sự, vui vẻ và luôn mỉm cười mỗi khi có dịp tiếp xúc với tha nhân.

 

- Tránh than vãn về các nỗi khổ gặp phải trong đời tu khi nói chuyện với các bạn trẻ.

 

- Nhắc nhở cộng đoàn năng cầu nguyện cho ơn thiên triệu.

 

- Nếu biết bạn trẻ nào có ý muốn dâng mình cho Chúa, hãy đến thăm, trò chuyện và giải thích cho họ hiểu biết thêm về ý nghĩa và giá trị của đời tu…

 

b) Đối với những người đang sống đời hôn nhân gia đình:

 

- Hãy năng cầu xin Chúa giúp con cháu mình nhận ra ơn Chúa kêu gọi và mau mắn đáp lại.

 

- Tránh phê bình, chỉ trích, nói hành nói xấu các chủ chăn như Giám Mục, linh mục, và tu sĩ.

 

- Tham gia vào hội Bảo Trợ ơn gọi linh mục tu sĩ bằng lời cầu nguyện và quảng đại đóng góp tài chánh hằng năm để ủng hộ cho ơn thiên triệu.

 

5.LỜI CẦU:

 

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin ban cho chúng con những linh mục quảng đại, hy sinh phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân.

 

Xin ban cho chúng con những linh mục có trái tim biết yêu thương bằng tình yêu của Chúa, một trái tim mở rộng đón nhận mọi người, nhất là những người đau khổ bất hạnh.

 

Xin ban cho chúng con những linh mục có đức tin vững mạnh, luôn sống kết hiệp mật thiết với Chúa, để giúp chúng con gặp được Chúa.

 

Xin ban cho chúng con những linh mục biết nhiệt tình rao giảng Lời Chúa, có sức làm bùng cháy ngọn lửa yêu thương trong lòng chúng con, giúp chúng con thêm đức tin để nhìn thấy Chúa hiện thân trong mọi người nhất là những người nghèo khổ và sẵn sàng phục vụ họ.

 

Cuối cùng xin Chúa ban cho chúng con những linh mục là những chủ chăn tốt lành luôn biết noi gương Chúa: “Đến để cho chiên được sống và sống dồi dào".- AMEN.

 

LM ĐAN VINH – HHTM

 

 

 

V. TƯ LIỆU HUẤN LUYỆN HUYNH TRƯỞNG HHTM TH 04/2021

 

HỆ THỐNG TỔ CHỨC HIỆP HỘI THÁNH MẪU GIÁO XỨ

 

Tại mỗi Giáo Xứ có thể có từ một đến ba Xứ Đòan Ngành HHTM như: Xứ Đòan BÁC ÁI HIỆP HỘI THÁNH MẪU, XĐ GIA ĐÌNH HHTM và XĐ GIỚI TRẺ HHTM.

 

Ngòai ra, các môi trường chuyên biệt như Nhà Lưu xá Sinh Viên hay các nhóm công tác phục vụ… cũng có thể hình thành những Đòan Hiệp Hội Thánh Mẫu như: Đòan Học Sống Lời Chúa HHTM, Đòan Sinh Viên HHTM, Đòan Nhà Giáo HHTM, Ca Đòan HHTM, Đòan Lễ Sinh HHTM Giáo Xứ, …

 

Liên kết để gia tăng sự hiệp thông và giúp nhau làm việc tông đồ hữu hiệu hơn. Hiệp Hội Thánh Mẫu cũng liên kết các đơn vị HHTM theo hai hệ thống là hàng dọc và hàng ngang như sau:

 

1. HỆ THỐNG ĐIỀU HÀNH HÀNG DỌC THEO LỨA TUỔI (NGÀNH):

 

Đây là hệ thống họat động chính yếu của HHTM liên kết giữa các Nhóm Nhỏ gọi là Gia Đình Sống Đời Kitô HHTM với Xứ Đòan (Ngành), các Xứ Đòan (Ngành) với Hiệp Đòan (Ngành), các Hiệp Đòan (Ngành) với Liên Đòan (Ngành), các Liên Đòan (Ngành) với Tổng Đòan (Ngành) như sau:

 

a) NHÓM NHỎ GIA ĐÌNH HIỆP SỐNG KITÔ HHTM: Hội Viên cùng hay khác phái trong một Giáo Xứ hay cùng môi trường sống kết hợp thành từng Nhóm Nhỏ gọi là GIA ĐÌNH SỐNG ĐỜI KITÔ HHTM. Mỗi GĐ gồm từ 7 đến 12 Thành Viên chung hay riêng nam nữ, theo lứa tuổi gọi là Ngành: Từ 16-30 tuổi cho Ngành Giới Trẻ HHTM, từ 30-50 tuổi cho Ngành Gia Đình HHTM, từ 50 tuổi trở lên cho Ngành Bác Ái HHTM.

 

b) XỨ ĐÒAN (NGÀNH) HHTM GIÁO XỨ: Các Gia Đình Nhóm Nhỏ cùng lứa tuổi trong một Giáo Xứ liên kết thành một Xứ Đòan (Ngành) do một Ban Chấp Hành Xứ Đòan điều hành. Như vậy mỗi Giáo Xứ có thể có từ một đến ba Xứ Đòan Ngành là Xứ Đòan Giới Trẻ HHTM, XĐ Gia Đình HHTM, XĐ Bác Ái HHTM.

 

c) HIỆP ĐÒAN (NGÀNH) HHTM GIÁO HẠT: Các Xứ Đoàn cùng Ngành trong một Giáo Hạt liên kết thành Hiệp Đòan (Ngành) Giáo Hạt, do một Ban Chấp Hành Hiệp Đòan (Ngành) điều hành. Như vậy trong một Giáo Hạt có thể có ba Hiệp Đòan (Ngành) là: Hiệp Đòan Giới Trẻ HHTM, HĐ Gia Đình HHTM, HĐ Bác Ái HHTM.

 

d) LIÊN ĐÒAN NGÀNH HHTM GIÁO PHẬN: Các Hiệp Đoàn (Ngành) Giáo Hạt trong một Giáo Phận liên kết thành Liên Đòan (Ngành) Giáo Phận, do một Ban Chấp Hành Liên Đòan (Ngành) điều hành. Như vậy trong một Giáo Phận luôn có ba Liên Đòan (Ngành) là: Liên Đòan Giới Trẻ HHTM, LĐ Gia Đình HHTM, LĐ Bác Ái HHTM.

 

e) TỔNG ĐÒAN NGÀNH HHTM TRUNG ƯƠNG: Các Liên Đoàn (Ngành) Giáo Phận trong một quốc gia liên kết thành Tổng Đòan (Ngành) Trung Ương, do một Ban Chấp Hành Tổng Đòan (Ngành) điều hành. Như vậy trong nước sẽ có ba Tổng Đòan (Ngành) HHTM là Tổng Đòan Giới Trẻ HHTM, TĐ Gia Đình HHTM, TĐ Bác Ái HHTM.

 

2. HỆ THỐNG LIÊN KẾT HÀNG NGANG:

 

Các đơn vị thuộc ba Ngành khác nhau, do cùng theo một linh đạo chung, cùng tuân giữ một Luật Sống chung, cùng sinh họat trong một môi trường chung, cần liên kết thành một tổ chức chung gọi là Hiệp Hội thánh Mẫu theo 4 cấp từ thấp lên cao như sau:

 

a) HIỆP HỘI THÁNH MẪU GIÁO XỨ: Các Xứ Đoàn Ngành trong cùng một Giáo Xứ liên kết thành HIỆP HỘI THÁNH MẪU GIÁO XỨ do một Hội Đồng Quản Trị HHTM Giáo Xứ điều hành.

 

b) HIỆP HỘI THÁNH MẪU GIÁO HẠT: Các Hiệp Hội Thánh Mẫu Giáo Xứ trong một Giáo Hạt liên kết thành HIỆP HỘI THÁNH MẪU GIÁO HẠT do một Hội Đồng Quản Trị HHTM Giáo Hạt điều hành.

 

c) LIÊN HỘI HHTM GIÁO PHẬN: Các HHTM Giáo Hạt trong một Giáo Phận liên kết thành Liên Hội HHTM Giáo Phận do một Hội Đồng Quản Trị Liên Hội Giáo Phận điều hành. Liên Hội Giáo Phận có quyền thu nhận các HHTM Giáo Hạt và HHTM Giáo Xứ mới thành lập trong Giáo Phận làm Thành Viên chính thức.

 

d) TỔNG HỘI HHTM VIỆT NAM: Các Liên Hội HHTM Giáo Phận trong nước liên kết thành Tổng Hội HHTM Việt Nam do một Hội Đồng Quản Trị Tổng Hội HHTM điều hành. Tổng Hội HHTM Việt Nam có quyền thu nhận các Liên Hội HHTM Giáo Phận làm Thành Viên chính thức.

 

e) CỘNG ĐÒAN SỐNG ĐỜI KITÔ QUỐC TẾ: Các Tổng Hội HHTM các Nước trên thế giới liên kết thành CỘNG ĐÒAN SỐNG ĐỜI KITÔ QUỐC TẾ (Christian Life Communities- Viết tắt là CLC).

 

II. LỜI CHÚA VÀ CẦU NGUYỆN

 

1) LỜI CHÚA: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga 13,34-35)

 

2) BÀI HÁT: Đk: NGƯỜI TA CỨ DẤU NÀY MÀ NHẬN BIẾT CHÚNG CON LÀ MÔN ĐỆ THẦY: LÀ CHÚNG CON YÊU THƯƠNG NHAU.

 

Tk: Thầy truyền cho chúng con điều răn mới của Thầy, là: “Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu chúng con”.

 

LM ĐAN VINH - HHTM

 

  1. THƯ GIÃN TH 04/2021
  2.  

1. QUÁI QUỶ

 

Trên đường phố một thị trấn nước Ý, ông thầy tu đứng nhìn một chàng trai đang cố sức khởi động chiếc xe của anh ta mà ko được. Anh ta bực tức chửi rủa.
- Sao lại quái quỷ thế nhỉ, thật là quái quỷ, nghìn lần quái quỷ!
Ông thầy tu lại gần và nói bằng giọng chê trách: "xin chúa giúp đỡ con!" có phải hơn không.
Chàng trai nói: "xin chúa giúp đỡ con!" rồi khởi động lần nữa, động cơ xe rú lên, và anh ta phóng xe đi.
Ông thầy tu sửng sốt tròn xe mắt, thốt lên:
-Sao...sao lại quái quỷ thế nhỉ?

 

2. ĐỒ CON HÀ MÃ !

 

Một hôm cha sở được ông trùm họ mời đến nhà một đôi vợ chồng già trong xứ giúp họ hòa giải Khi đến nơi, cha thấy bà vợ đang vừa khóc sướt mướt vừa đòi đuổi ông chồng ra khỏi nhà. Cha sở liền hỏi bà rắng :” Tại sao bà lại đòi đuổi ông chồng ra khỏi nhà vậy ?” Sau một lát im lặng, Bà vợ mới trả lời cha rằng :” Thưa cha, vì 30 năm trước đây ông ấy đã dám chửi con là “đồ con hà mã !” Cha lại hỏi tiếp :” Thế tại sao bà không giận ông ấy ngay lúc đó, mà đợi mãi đến bây giờ sau 30 năm bà lại làm toáng lên như thế này là vì lẽ gì vậy ?”. Bấy giờ bà khóc to lên và mếu máo trả lời :” Vì cách đây 30 năm khi hai vợ chồng mới lấy nhau, con đã bị ông ấy la mắng là “đồ hà mã !”. Khi đó con chưa biết hà mã là con vật hình thù thế nào. Mãi đến chiều hôm qua, khi mấy đứa cháu đưa con đi chơi sở thú với chúng, con hỏi ra mới biết thế nào là con hà mã !!!”.

 

3. CHẬM NHƯ RÙA

 

Trong một khu rừng sâu vào một chiều ngày nọ, chúa sơn lân là chú cọp ra lệnh tập họp tất cả mọi loài thú lớn bé đang sống trong rừng về họp mặt và ra điều kiện :“Mỗi đứa các ngươi sẽ phải kể một câu chuyện. Mà phải là chuyện cười mới được, để tất cả các con vật khác đều phải cười, chỉ cần một con không cười là ta sẽ ăn thịt kẻ kể chuyện đó.

 

Chú Cáo liền xung phong đứng lên kể chuyện đầu tiên. Chuyện của cáo rất vui làm cho tất cả các con thú đều cười vui như tết, duy chỉ có chú Rùa già là không cười. Thế là cáo ta bị cọp ăn thịt như đã cam kết. Ngày hôm sau đến phiên chú Thỏ kể chuyện. Chuyện của Thỏ thật là dở nên kể xong mà không thấy một con vật nào cười cả, chỉ duy một mình chú Rùa già là cười lên cách khoái trá. Ngay sau đó Thỏ củng bị Cọp ăn thịt. Sau đó Cọp liền hỏi chú Rùa rằng :” Này anh bạn kia, sao hôm qua Cáo kể chuyện hay như vậy mà anh không cười, hôm nay Thỏ kể dở tệ sao anh lại cười ?” Bấy giờ sau một lúc lâu, Rùa ta mới chậm rãi trả lời :“Tôi cười vì nghĩ tới chuyện hôm qua của Cáo kể thật là tức cười, nên tôi mới cười thoải mái như vậy. Thì ra chuyện hôm qua, hôm nay mới nghĩ ra. Đúng là “Chậm như Rùa””

 

SƯU TẦM

 


VII. NHỎ TO HỮU ÍCH THÁNG 04/2021

 

7 LOẠI NƯỚC ÉP RAU CỦ QUẢ HỮU ÍCH

 

Ngày nắng nóng, bạn uống nước ép cà rốt, dưa chuột, dứa, cải bó xôi, cà chua... có tác dụng giải nhiệt cơ thể.

 

1. Nước ép cà rốt

 

Theo bác sĩ Nguyễn Thùy Linh, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, cà rốt giàu beta croten, tiền chất vitamin A, bảo vệ mắt, ngăn ngừa thoái hóa điểm vàng và đục thủy tinh thể. Vitamin A trong cà rốt giúp làn da mịn màng, sáng đẹp, chất chống oxy hóa thải độc cơ thể. Nước ép cà rốt giàu chất xơ và ít calo nên phù hợp với người ăn kiêng giảm cân. Đây là thức uống phù hợp vào mùa nóng, có thể kết hợp với dứa, cam để thêm hương vị.

 

2. Nước ép dứa

 

Nước ép dứa hỗ trợ giảm cân và đốt mỡ thừa hiệu quả. Vitamin B trong dứa có tác dụng làm đẹp da, ngăn ngừa khô da, cung cấp độ ẩm cho tóc. Dứa cũng có thể dùng làm mặt nạ dưỡng da giảm nếp nhăn. Mùi hương của quả dứa giúp bạn giảm cảm giác căng thẳng và mệt mỏi. Uống một ly nước dứa ép còn làm mát phế quản và giảm ho, đau họng.

 

Tuy nhiên, dứa chứa axit oxalic, ăn nhiều sẽ hại dạ dày. Bạn chỉ nên ăn dứa ở mức vừa phải và sau bữa ăn. Người bị huyết áp thấp và sa bụng (chuẩn bị sinh con) nên ăn ít dứa. Người sợ lạnh, cơ thể yếu cũng không nên ăn nhiều dứa.

 

3. Nước ép cần tây

 

Nước ép cần tây có thể kết hợp với táo xanh, dưa chuột để thêm hương vị. Ảnh: HEalth

 

Nước ép cần tây có tác dụng lợi tiểu, thải độc. Cần cây giàu canxi tốt cho xương. Lá cần tây có thể được sử dụng kết hợp với nước ép dưa chuột hoặc táo để tăng cường thêm hương vị và giảm bớt mùi vị nồng của cần. Uống nước ép cần tây vào buổi sáng để làm sạch và giữ cho cơ thể bạn nhiều năng lượng. Một cốc vào buổi tối trước khi đi ngủ để giúp bạn nghỉ ngơi.

 

4. Nước ép dưa hấu

 

Lương y Bùi Đắc Sáng, Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ, cho biết trong Đông y, dưa hấu vị vừa ngọt vừa nhạt, tính lạnh, tác dụng giải khát, khỏi say nắng, phiền nhiệt, hạ khí, lợi tiểu tiện, giải say rượu. Dưa hấu thích hợp với người có mụn nhọt, viêm loét miệng, phù thũng do viêm thận, đái tháo đường, cao huyết áp, say nắng. Ngoài ruột, hạt dưa hấu có công hiệu làm mát phổi, tan đờm, nhuận tràng, lợi tiêu hóa. Có thể pha chế thành nước ép dưa hấu, hoặc kết hợp với các vị thuốc đông y như: tây qua bì, kim ngân hoa, trúc diệp... uống trong ngày để thanh nhiệt, giải nắng.

 

5. Nước ép dưa chuột

 

Dưa chuột chứa hơn 90% nước, giàu chất xơ, vitamin, chất khoáng cho cơ thể và ít calo. Dưa chuột rửa sạch, gọt vỏ để ăn sống hoặc làm nước ép uống. Uống nước dưa chuột giúp duy trì hệ tiêu hóa do hàm lượng chất xơ cao, đẹp da, ngừa mụn, cải thiện sắc tố da. Đặc biệt chất xơ không hòa tan trong dưa chuột giúp thức ăn di chuyển qua đường tiêu hóa dễ dàng.

 

6. Nước ép cà chua

 

Cà chua có màu sắc khi chín khác nhau (vàng, da cam, hồng, đỏ...), trong đó cà chua màu đỏ giàu chất dinh dưỡng, vitamin, chất khoáng, chất xơ phù hợp với mùa hè. Cà chua cũng chứa vitamin A, C và giàu rutin, beta-carotene, các chất chống oxy hóa, giúp da đầy đủ dưỡng chất và độ ẩm. Bạn nên chọn mua quả cà chua đã chín nhưng còn cứng, không có đốm, không bị trầy vỏ hoặc dập nát, bảo quản ở nhiệt độ phòng, tránh ánh nắng trực tiếp.

 

7. Nước ép rau bina

 

Rau bina còn gọi là cải bó xôi, rau chân vịt. Theo dược sĩ Lê Kim Phụng, nguyên giảng viên trường Đại học Y dược TP HCM, cho biết theo y học cổ truyền, rau bina xanh chữa viêm, nâng cao thị lực, cung cấp canxi giúp xương chắc khỏe và được sử dụng phổ biến hơn bina đỏ. Rau bina đỏ giàu vitamin, phốt pho, protein, natri... tốt cho dạ dày, làm đẹp da và tóc. Hàm lượng protein và chất xơ trong rau bina giúp giảm nồng độ insulin trong máu, giảm cơn đói.

 

SƯU TẦM

 

 

 

 

VIII. THÔNG TIN HIỆP SỐNG THÁNG 04/2021

A. TIN LIÊN HỘI HHTM /TGP SG TH 04:

1. CHÚC MỪNG:

1) Ngày 05/04/2021: Lễ kính thánh Vinh Sơn Ferrê là Bổn Mạng

- Cha Vinh Sơn Vũ Ngọc Đồng: Giám Đốc Caritas TGP TP HCM.

Xin chúc mừng quý cha và chúc quý cha đón nhận dồi dào hồng ân của Chúa qua lời bầu cử của thánh Vinh Sơn Bổn Mạng.

2) Ngày 28/04/2021 : Kỷ niệm 48 năm ngày thụ phong linh mục (28/4/1973-28/04/2021) của cha Tổng  Giám Huấn HHTM Đaminh Đinh Văn Vãng:

Hội viên HHTM các cấp hiệp ý  tạ ơn Chúa mừng 48 năm thụ phong linh mục của Cha Đa Minh.  Hướng vể năm kính Thánh Giuse .Xin Thánh Cả Giuse cầu bầu cùng Thiên Chúa ban sức khỏe cho cha Tổng Giám Huấn vẫn luôn hăng say, vui vẻ và nhiệt thành trong sứ vụ, luôn là những chứng nhân sống động giữa lòng đời hôm nay.

B. THÔNG TIN CỦA LIÊN ĐOÀN BÁC ÁI HHTM– TGP SÀI GÒN TH 3- 4 / 2021

1. MỪNG BỔN MẠNG: Tháng 3 / 2021

* Ngày 19/3: Lễ Thánh Cả Giuse

-Bổn mạng Cha Giuse Trần Cao Thăng: Giám huấn Xứ đoàn Bác ái HHTM Bắc Dũng

-Bổn mạng Cha Giuse Nguyễn Thanh Hiền: Giám huấn Xứ đoàn Bác ái HHTM Nam Hưng

* Ngày 25/3 : Mừng lễ Đức Mẹ Truyền Tin

Bổn mạng của quý Bà :

-Bà Maria Đoàn Thị Mận - Đoàn phó nội Xứ đoàn HHTM Châu Bình.

-Bà Maria Đỗ Thị Huệ - Thủ quỹ Xứ đoàn HHTM Châu Bình.

-Bà Maria Hoàng Thị Mùi – Đoàn trưởng Xứ đoàn Bác Ái Bùi Môn.

* Ngày 05 / 4: Lễ Thánh Vinh Sơn

-Bổn mạng ông Vinh Sơn Mai Viết Thượng - Ủy viên Truyền Thông Liên Đoàn Bác Ái TGPSG.

*Ngày 29 / 4 : Lễ Thánh nữ Catarina:

-Bổn mạng Bà Catarina Đào Thị Chiến – Đoàn trưởng Xứ đoàn Bác Ái Nam Hòa kiêm Cố vấn Bảo trợ Liên đoàn Bác Ái.

-Bổn mạng Bà Catarina Trần Thị Thanh Vân – Đoàn trưởng Xứ đoàn Bác ái Bình Thái .

Ban Chấp Hành Liên Đoàn Bác Ái xin chúc mừng quý Cha – quý ông bà. Xin Thánh quan thầy luôn gìn giữ quý Cha và quý vị được hồn an xác mạnh, tràn đầy Hồng ân Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria.

2. BÁO CÁO CÔNG TÁC CỦA LIÊN ĐOÀN BÁC ÁI HHTM – TGP SG:

1) Do tình hình dịch bệnh tái phát nên mọi công tác phụng vụ đều tạm ngưng.

2) Ngày 09/3/2021 Tòa Tổng Giám Mục thông báo: Mọi hoạt động đều được hoạt động trở lại. Các xứ đoàn Hiệp Hội Thánh Mẫu – Ban chấp hành và hội viên tiếp tục công tác tham dự thánh lễ, đọc kinh tối tại các gia đình, thăm hỏi bệnh nhân đau ốm, trẻ em khuyết tật, người già neo đơn.

3) Bà Liên Đoàn phó – Bác ái HHTM – TGP đã thực hiện trong mùa chay.

-Tặng 39 cây nến phục sinh + 40 kg bánh lễ cho Tòa Tổng Giám Mục - Cao Bằng Lạng Sơn.

-Tặng 30 kg bánh lễ cho Nhà thờ Chính Tòa KonTum.

CÔNG TÁC THÁNG 4 / 2021:

-Ban Chấp hành và hội viên thực hiện xưng tội, rước lễ, canh tân đời sống theo Chúa trong mùa chay.

-Tổ chức thăm viếng các hội viên đau yếu trong xứ đoàn.

-Ban chấp hành và hội viên tiếp tục lần chuỗi Mân Côi kính Đức Mẹ.

-Thực hiện công tác phục vụ Nhà Chúa như lau Nhà Thờ, cắm hoa, đọc Lời Chúa…

-Thực hiện giúp đỡ các trẻ em cơ nhỡ khuyết tật, các cụ già neo đơn…

-Thực hiện bác ái Mùa Chay, Ban chấp hành các xứ đoàn vận động hội viên đóng góp cho việc trùng tu Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn.

II. BÁO CÁO CÔNG TÁC THÁNG 2 + 3 CỦA CÁC XỨ ĐOÀN:

1) Đoàn Bác Ái HHTM Nam Hòa:

- Thăm bệnh nhân : 3 người

- Quét dọn vệ sinh nhà Chúa : 5 người

- Thăm hội viên đau liệt : 10 người

- Phụ trách đọc Lời nguyện Thứ bảy hàng tuần

Tổng chi số tiền : 1.100.000

2) Đoàn Bác Ái HHTM Sao Mai:

- Quét dọn vệ sinh nhà Chúa : 4 lần / 10 người

- Viếng xác và đọc kinh tại gia : 2 người

- Sinh hoạt chiều Thứ bảy : 60% hội viên

- Thăm 2 Cha Phao Lô và StêPhaNo đang nằm viện.                                                     

- Thăm 3 mái ấm gồm các cụ neo đơn

* Mái ấm Tân Thông Hội Củ Chi : 65 cụ

* Mái ấm Tình thương Trung An Củ Chi : 40 cụ

* Mái ấm Phước Điền Tây Ninh : 30 cụ

3) Đoàn Bác Ái HHTM Lộc Hưng:

- Quét dọn vệ sinh nhà Chúa : 8 lần / tháng

- Thăm các hội viên đau liệt

- Lần chuỗi Mân Côi cầu cho hội viên qua đời

- Tham dự các Thánh lễ cầu cho hội viên đã qua đời

4) Đoàn Học Sống Lời Chúa ( Nhà thờ Thánh Mẫu )

- Quét dọn vệ sinh nhà Chúa : 8 lần

- Hát lễ chiều mỗi ngày 16g30

- Chầu hàng tháng 16g30

- Giúp Cộng đoàn Thừa Sai Đức Tin : 3.000.000

          Tổng chi công tác bác ái : 10.000.000

5) Đoàn Bác Ái HHTM Tân Hưng:

- Ban chấp hành và hội viên thăm các hội viên đau liệt tại tư gia.

- Quét dọn vệ sinh, cắm hoa nhà Chúa : 4 lần / tháng

- Đọc kinh luân phiên tại các gia đình hội viên có thân nhân giỗ trong tháng.

- Ban chấp hành và hội viên tham dự đọc kinh lần chuỗi hàng ngày để cầu cho các linh hồn.

- Đóng góp trùng tu Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn : 5.000.000

III. THƯ MỜI HỌP :

Mời các anh chị Xứ Đoàn trưởng và thành viên BCH các xứ đoàn thuộc LĐBA / HHTM đến tham dự buổi sinh hoạt tháng 04/ 2020 tại Nhà thờ Thánh Mẫu Trung Ương : Số 3 - 5 Chữ Đồng Tử, P7, Q.Tân Bình , vào lúc 15g00 Thứ Hai, ngày 26 / 4 / 2021.

Đề nghị các anh chị em đến tham dự đầy đủ và đúng giờ.

C. SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN GIA ĐÌNH HHTM/GP TH 04/2021 :

1. MỪNG BỔN MẠNG:

-Ngày 05/04/2021: Lễ kính Thánh Vinh Sơn Bổn mạng:

Anh Vinh Sơn Nguyễn Ðức DŨNG – Trưởng XĐ GÐ HHTM Lạc Quang (HM).

Chúc anh thánh đức, vui khỏe noi gương thánh Vinh Sơn.

II. SINH HOẠT LĐ GIA ĐÌNH HHTMTGP  THÁNG QUA :

-Ngày 01/3/2021 : Ban chấp hành Liên đoàn đã đến thăm chị Hợp Dương Trưởng Gia đình Hồng Ân bị ung thư não : chị Hợp Hiện rất yếu không thể phẫu thuật ,Bác sĩ bịnh viên Phạm Ngọc Thạch cho về Gia đình .

-Ngày 04/3/2021 : Ban chấp hành liên đoàn đã đến thăm chị Kim Vân

Truyền thông Liên đoàn gia đinh TGP SG , Chị Kim Vân  bịnh ung gan,  giai đoạn cuối nằm tại nhà một năm nay tình trạng rất yếu,  quá kiệt sức .

-Ngày 19/3/2021 Lễ kính Thánh Giuse : Ban Chấp hành liên đoàn đã chúc mừng bồn mạng Cha Phụ Tá Giuse Vũ Quang Trường trong Thánh lễ 5g sáng tại giáo xứ Sao Mai.

-Chiều ngày 19/3 /2021: Liên đoàn cử anh Trần Thắng ( Tân ủy viên liên lạc thay cho chị Hợp Dương bị đau ) đai diện Liên đoàn Gia đình đến giáo xứ Châu Bình Chúc mừng bổn mạng  gia đình trẻ Châu Bình .

III. BÁO CÁO CÔNG TÁC CỦA CÁC GĐ XỨ ĐOÀN TRONG THÁNG QUA :

1) Xứ Đoàn Gia Đình HHTM Lạc Quang Q 12 :

  • Anh Chị em chung tay góp 2 tạ gạo cho giáo xứ vào mùa chay
  • Buổi tối hằng tuần tham gia ngắm 15 sự thương khó
  • Có mang khẩu trang  đi lễ
  • Thăm hỏi động viên chị Hợp Dương bị ung thư não
  • Dự lễ và chúc mừng bổn mạng cha xứ Lạc Quang ngày 19/3

2) Xứ Đoàn Gia Đình HHTM Tân Hưng Quận 12:

- Làm vệ sinh nhà xứ tuần 2 lần ( kể cả những ngảy bị giãn cách )

- Ngày 19/3 dâng lễ và chúc mừng  Bổn mạng của cha chính xứ Giuse Phạm Hoàng Lương và Cha Phụ tá Giuse Maria Nguyễn Quốc Tuấn .

- Chúc mừng lễ mừng bổn mạng và dự tiệc liên hoan với giáo họ Giuse.

- Anh chị em đi lễ và hội họp đều đeo khẩu trang

3) Xứ Đoàn Gia Đình HHTM Lộ Đức (Ca-ri-tas Sao Mai):

Ngày  17/3/2021 : Thăm Chị Kim Vân truyền thông : Trao tiền của chị em gửi hỗ trợ Cho Chi Kim Vân

  • Gđ Lộ Đức Sao Mai  :  1.000.000 đ
  • Ngày 19/3/2021 :  Dâng lễ vật ngày bổn mạng bậc  nhì  của  Giáo  xứ  Sao Mai
  •  Chúc bổn mạng cha quản hạt chí Hòa , Cha Xứ Tân Sa Châu

bổn mạng cha  phụ tá Giáo xứ Sao Mai .

  • Ngày thứ bảy 20/3/2021 :  chia sẻ phụ mai ấm nấu cơm cho bệnh nhân mổ hàm ếch ở bệnh viện 1A ngày thứ 7

-   Ngày thứ hai 22/3/2021 :  Trao  cơm trở  tại  cho bịnh nhân nghèo tại bịnh viện 115 từ thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần.

4) XĐ Gia đình Trẻ HHTM Châu Bình:

- Ngày 19/03/2021 Lễ kính Thánh Cả Giu-se là bổn mạng của Xứ Đoàn Gia đình trẻ Hiệp Hội Thánh Mẫu Châu Bình. Được tổ chức hồi 17g30  ngày 19/3/2020.

Mừng lễ Bồn mạng của gia đình Châu Bình  có rước thánh Giuse từ cổng nhà thờ lên cung Thánh .

5) XĐ Gia đình HHTM Mẫu Tâm ( Hạt Chí Hòa )

- Trao hầu Mình Thánh Chúa cùng với Cha xứ cho kẻ liệt : 2 Chị

- Dạy giáo lý thiếu nhi trong GX : 2 Chị

-  Phụ giúp bữa  sáng chủ nhật hàng tuần  thiếu nhi  :  2chị

-  Phụ quét dọn nhà chờ phục sinh, khuôn viên nhà thờ: 6 chị

- Đọc kinh 2đám tang trong GX .

-  Sinh hoạt hằng tuần thứ sáu : Đọc kinh khai mạc,  Lúc 20h lần chuổi mân côi mùa thương ,và tập hát ,kinh bế mạc 21h30

-  Hát lể sáng thứ bảy lúc5h30 hằng tuần

Hiện gia đình HHTM xứ đoàn Mẫu Tâm : 15 hội viên chính thức .

6) XĐ Gia đình HHTM Sao Mai  :

- Ngày  9/3 đoàn tiếp tục sinh hoạt lại sau 3 tuần ngưng sinh hoạt vì dãn cách dịch Covid

- Chuyển 2.300.000 của ân nhân gửi đến mái ấm Nhân Hậu nuôi dưỡng các cụ bà neo đơn bệnh tật

- Gửi tặng chị Kim Vân qua Ban Chấp hành Liên đoàn :

- Chị Phạm Thị Liễu : 300 000đ

- Chị Thu Lê : 1 000 000đ

7) XĐ Gia đình HHTM Bắc Hà – Củ Chi :

- Gia đình HHTM xứ đoàn Bắc Hà Củ Chi sinh hoạt lại sau giãn cách vì dịch Covid lần 2 váo ngày 15/3/2021

- Các ngày thứ bảy hằng tuần vẫn quét nhà Thờ

- Ngày 27/3/2021 viếng xác chị Teresa  hội viên của đoàn .

IV. DỰ KIẾN SINH HOẠT THÁNG 05/2021 CỦA LIÊN ĐOÀN GIA ĐÌNH HHTM:

1) Tháng 05 có ngày Thứ bảy  01/05 là lễ kính thánh Giuse Lao Động, bổn mạng cùa XĐ Gia Đình HHTM Mẫu Tâm.

- Ban chấp hành Liên đoàn Gia đình HHTM T GP SG sẽ đến giáo xứ Mẫu Tâmcùng dâng lễ tạ ơn và chúc mừng gđ Mẫu Tâm vào Thánh lễ 5g sáng.

Sau đó Liên đoàn gia đình sẽ viếng mộ cha cô Giacobe tại Nghĩa trang Lararô.

2) Ngàythứ hai 3/5/2021  : Kính nhớ ngày giỗ của Cha cố Giacobe Đỗ Minh Lý nguyên Giám đốc Hiệp Hội Thánh Mẫu . Ban Chấp hành Liên đoàn gia đình mời anh chị hội viên HHTM dự Thánh lễ lúc 16g30 thứ hai ngày 3/5/2021 Tại nhà Thờ  nhà Thờ Thánh Mẫu trung ương .cầu nguyện cho Cha Cố Gia cô Bê.

V. TIN BUỒN  :

Chị TÊRÊSA NGUYễN THị KIểM là hội viên của Gia đình Xứ Đoàn Bắc Hà đã được Chúa gọi về ngày 17/3/2021.

 Xin tất cả các anh chị em hội viên Gia đình Hiệp hội Thánh Mẫu, các xứ đoàn dâng lời cầu nguyện cho linh hồn Têrêsa .

D. THÔNG TIN LIÊN ĐOÀN GIỚI TRẺ HHTM TGP THÁNG 04:

1) SINH HOẠT LIÊN ĐOÀN GIỚI TRẺ HHTM/GP:

Mừng bổn mạng: Ngày 05/04/2021 là lễ kính Thánh Vinh Sơn Bổn mạng anh Vinh Sơn Nguyễn Văn HÙNG (Mộc)  nguyên Cố Vấn LÐ GT HHTM. Và anh Vinh Sơn Phạm Công THANH TÙNG Ðoàn Trưởng GT HHTM Thái Bình XM.

Xin thánh Vinh Sơn  cầu bầu cùng Chúa cho hai anh luôn khỏe mạnh và dồi dào hồng ân TC.

2) TÌNH HÌNH LIÊN ĐOÀN GIỚI TRẺ HHTM TGP:

Liên Đoàn Giới Trẻ HHTM TGP Saigon hiện nay còn 7 Xứ Đoàn Giới Trẻ HHTM đang hoạt động như sau:

- Xứ Đoàn Giới Trẻ HHTM Sao Mai.

- Xứ Đoàn Giới Trẻ HHTM Thạch Đà.

- Xứ Đoàn Giới Trẻ HHTM Châu Bình.

- Xứ Đoàn Giới Trẻ HHTM Thái Bình.

- Xứ Đoàn Giới Trẻ HHTM Bình Thái.

- Xứ Đoàn Giới Trẻ HHTM Bình An.

- Xứ Đoàn Sinh Viên NT Thánh Mẫu đang hình thành.

Liên Đoàn Giới Trẻ HHTM đang trong thời gian củng cố sinh hoạt bằng việc BCH Liên Đoàn sẽ đi thăm các Xứ Đoàn.

TRUYỀN THÔNG HHTM