Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Đi tìm ý nghĩa của đau khổ - Một góc nhìn về thập giá

Tác giả: 
Lm Anmai, CSsR

 

 

Đi tìm ý nghĩa của đau khổ

 

          Một trong những vấn nạn nhân sinh mà chúng ta đi tìm kiếm cách vô ích câu trả lời đó là vấn nạn đau khổ. Từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây đau khổ luôn là một khắc khoải cho nhân loại qua mọi thời.

 

          Đối với Kitô hữu, đau khổ còn là một huyền nhiệm không chắc làm sáng tỏ được, thế nhưng, dưới ánh sáng của Tin Mừng vấn đề sẽ được khai tỏ. Thái độ của Kitô hữu trước đau khổ được mời gọi hãy ứng xử theo khuân mẫu của Đức Kitô : không phẫn uất, cũng không thất vọng nhưng nhẫn nhục đón nhận và phó thác hoàn toàn trong bàn tay của Chúa Cha. Làm cho việc chịu đựng đau khổ trở nên có ích.

 

          Ta đã từng nghe về cuộc chiến trong nội tâm của ngôn sứ Giêrêmia, một trong bốn vị ngôn sứ lớn của Cựu Ước. Cuộc đời của ông thật là lắm nỗi gian truân. Ông đã được Chúa gọi đi làm ngôn sứ cho Ngài, cho dù ông không muốn, ông nói: “Người đã dụ dỗ tôi, và tôi đã để mình bị dụ dỗ” (Gr 20, 7). Thế nhưng, vâng lời Thiên Chúa, ông vẫn chấp nhận từ bỏ ý riêng để thực hiện sứ mạng của một vị ngôn sứ, một sứ mạng đầy những thử thách, cam go. Ông đã được Thiên Chúa sai đi “để nhổ và lật đổ, để hủy và để phá, để xây và cấy trồng” (Gr 1, 10b). Ông đã lên tiếng tố cáo sự tham nhũng, bất trung của nhà cầm quyền đối với giao ước. Theo lời Chúa, ông còn phải lên tiếng cảnh cáo dân về đời sống sa đọa của họ. Ông loan báo về những ngày hoạn nạn sẽ tới, nếu dân không thay đổi lối sống, trở về với Thiên Chúa.

 

          Đứng trước những lời cảnh báo của vị ngôn sứ, chẳng những vua quan, dân chúng không chịu hối cải, nhưng còn xem ông như là kẻ chuyên loan báo tai họa. Và thế là họ tìm mọi cách làm hại ông. Ông đã bị bắt bớ, giam cầm, bỏ đói, hành hạ đủ cách đủ kiểu, chết đi, sống lại. Thậm chí cả bạn bè, thân hữu nhiều khi cũng tìm cách tránh xa ông. Trong nỗi đau khổ cùng cực đó, ông đã phải thưa lên với Giavê, Thiên Chúa: “Tất cả bạn hữu tôi rình tôi vấp ngã mà nói rằng: “Ước gì nó bị lừa dối để chúng ta thắng nó và sẽ trả thù nó”. Cả cuộc đời của vị ngôn sứ hình như luôn đối mặt với đau khổ, cho dù ông đã hết lòng vâng nghe theo lời Chúa. Đau khổ quả là một mầu nhiệm mà vị ngôn sứ không thể hiểu nổi.

 

          Không riêng gì ngôn sứ Giêrêmia, những nỗi đau khổ do hiểu lầm, chống đối, ganh tỵ, thậm chí có khi còn bị kết án, tẩy chay …, bởi chính những người gần gũi mình nhất, hình như luôn gắn liền với sứ mạng của người tông đồ. Cùng chung một cảm nghiệm về đau khổ đó, tác giả Thánh Vịnh cũng kêu lên: “Tôi bị những người anh em coi như khách lạ, bị những người cùng con một mẹ xem như kẻ ngoại lai. Sự nhiệt tâm lo việc nhà Chúa khiến tôi mòn mỏi, điều tủi nhục người ta nhục mạ, Chúa đổ trên mình tôi”.

 

          Đau khổ của ngôn sứ Giêrêmia, của các người công chính trong Cựu ước, tất cả như tập trung và báo trước cho hành trình thập giá của Đức Kitô. Với con đường thập giá, Đức Kitô đã mang vào thân thể Ngài tất cả sự tủi hổ, oan ức, cùng với biết bao nỗi đắng cay khi bị người thân, kẻ nghĩa phản bội, rồi bỏ Ngài mà trốn chạy ngay giữa lúc Ngài cần họ nhất.

 

          Như thế, với cái nhìn tự nhiên, đau khổ tự nó là một cái gì thật ghê gớm, đáng sợ không thể hiểu nổi và người ta càng không thể hiểu, khi những thấy cả những người công chính, thánh thiện cũng gặp phải biết bao đau khổ, thử thách.

 

          Tuy nhiên, lời Chúa  cho thấy, sức mạnh của đau khổ không phải là tuyệt đối. Chính nhờ đau khổ, chúng ta sẽ có dịp để cảm nghiệm rõ hơn về lòng thương xót của Thiên Chúa. Với kinh nghiệm của mình, tác giả Thánh vịnh mời gọi chúng ta: “Các bạn khiêm cung, hãy nhìn coi và hoan hỉ, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh, vì Chúa nghe những người cơ khổ, và không chê bỏ con dân của Người bị bắt cầm tù”.

 

          Chắc chắn không ai lại không đau khổ – bằng cách này hay cách nọ, tinh thần hoặc thể lý. Chúa Giêsu nói với Thánh Faustina: “Con đừng ngạc nhiên vì đôi khi bị tố cáo bất công. Chính Ta đã từng uống trước chén đau khổ bất công này vì yêu con.” (Nhật Ký, 289) Và như để động viên chúng ta chịu đau khổ, Thánh Faustina cho biết: “Tôi thấy rằng sự đau khổ và lời cầu nguyện của tôi đã gông cùm Satan và giành lấy nhiều linh hồn khỏi nanh vuốt của nó.” (Nhật Ký 1465)

 

          Đau khổ, một vấn đề nhân sinh, một vấn nạn, một thách đố… của triết học, của văn chương, của tâm lý học, của mọi suy tư khôn ngoan, nhưng trên hết, có thể nói là của mọi tôn giáo (tôn giáo nào cũng đề cập đến vấn đề đau khổ). Từ xưa tới nay, con ngưới đã tốn biết bao giấy mực để bàn về vấn đề nhức nhối của kiếp người này. Mọi cố gắng, tìm tòi nghiên cứu mong tìm được câu trả lời về nguồn gốc, ý nghĩa của đau khổ, nhưng quan trọng hơn vẫn là cố gắng tìm một liều thuốc khả dĩ chữa trị cho “căn bệnh trầm kha” này.


          Nhưng khốn nỗi! Khi con người gặp đau khổ, mọi giải thích, khuyên răn xem ra là trở nên vô nghĩa. Mọi bàn luận, suy tư phải dừng lại trước kinh nghiệm đau khổ của chính mỗi người.


          Đến lúc không chịu nỗi con người tìm cách tránh khổ, khi tránh không được, con người chạy đến tôn giáo, vì có nhiều tôn giáo chỉ cho người ta phương pháp tránh đau khổ.


          Tôn giáo không chủ trương tránh khổ, thứ nhất vì đó là điều không tưởng. Đau khổ sinh ra do lòng ham muốn, mà nhiều khi có có những ham muốn cao thượng, tốt đẹp, nay diệt ham muốn, chẳng những diêït luôn cả những ham muốn cao cả, hướng thượng nơi con người ta?


          Thứ đến, tránh đau khổ chỉ là một phương cách tiêu cực. Chấp nhận đau khổ một cách anh hùng mới là phương cách tích cực. Huống chi đau khổ còn cần thiếtđể tôi luyện con người cho càng ngày càng tốt đẹp hơn. Tất cả ai có kinh nghiệm chấp nhận đau khổ trong ý thức đều công nhận rằng nhờ đó đau khổ bị triệt tiêu và tan vỡ nên dũng lực hơn, tốt đẹp hơn.


          Lâu nay, những người công giáo chân chính đều tìm thấy trong đau khổ có những ý nghĩa thâm sâu. Qua mỗi dịp đau khổ, ta tìm thấy một bài học sâu xa Chúa muốn dạy ta, hay huấn luyện cho ta có một khả năng, đức tính nào đó trên bước đường tìm về chân lý là chính Chúa.


          Đau khổ cũng là một mầu nhiệm, và bởi là mầu nhiệm, sự hiện hữu của đau khổ cũng vượt quá sự hiểu biết của loài người, đồng thời cũng là món qùa cần thiết và qúi báu Chúa ban cho nhân loại. Từ đó, thái độ của con người trước đau khổ là đón nhận với lòng hân hoan và cảm tạ Thiên Chúa.


          Chỉ bằng đau khổ, Thiên Chúa toàn năng mới có thể cứu nỗi chúng ta, ngoài đau khổ, không còn con đường cứu rỗi nào khác. Như thế, qủa nhiên đau khổ là một mầu nhiệm, vượt qúa sự hiểu biết của loài người với tất cả những hạn hẹp của đầu óc một loài thụ tạo.

 

          Thực sự chẳng có ai thích tìm đau khổ, người ta muốn tránh bao nhiêu có thể. Nhưng điều người ta không tìm vẫn tự dưng mà đến. Vì nó như một phần của cuộc đời con người, dù muốn hay không, chúng ta vẫn phải đối diện. Vấn đề ta tích cực đón nhận, và tìm ra nơi nỗi đau khổ ấy một ý nghĩa.

 

          Qua đau khổ, ta có cơ hội nhận ra điều gì là căn cốtnhất của đời mình. Cũng chính qua đau khổ thúc đẩy tha nhân phải tìm đếnchia sẻ cảm thông, nâng đỡ nương tựa vào nhau, đồng hành với nhau, tạo nên sức mạnh kiên cường của tình thương để quật ngã những nỗi nguy nan, hiểm nghèo. Đau khổ chứa đựng một bài học giúp con người nhận ra thân phận mong manh, yếu đuối của mình. Sự cảm nhận chân thực đó khơi nên nỗi khao khát thẳm sâu nhất vọng lên từ tấm lòng mỗi người là muốn sống yêu thương. Khát vọng yêu thương vô biên của nhân thế chỉ có thể được thỏa mãn khi mọi người biết cùng nắm tay nhau tìm về với tình yêu tuyệt đối và bất tận nơi Thiên Chúa là Đấng luôn mong mỏi chia sẻ cuộc sống thần linh tràn trào hạnh phúc cho thụ tạo giống hình ảnh Ngài.

 

Lm. Anmai, CSsR

 

*******

 

Một góc nhìn về thập giá

 

          Đã nói đến thập giá là nói đến một sự dữ. Không ai được quyền và được phép tự mình trực tiếp tìm kiếm sự dữ. Thế thì chúng ta phải hiểu sao đây về việc phải vác thập giá? Không lẽ Chúa Kitô lại muốn chúng ta phải chịu khổ? Dĩ nhiên không ai dám to gan khẳng định điều này. Thập giá là một mầu nhiệm mà ta chỉ có thể hiểu được phần nào khi quy chiếu về thập giá của Chúa Kitô.

 

          Thập giá không chỉ là câu chuyện của lịch sử xa xưa. Thập giá đang đi ngang qua cuộc đời của mỗi chúng ta. Thập giá hiện diện nơi những gia đình ly tán, mâu thuẫn xung đột. Thập giá cũng tồn tại nơi những gương mặt của anh chị em đang đau khổ vì bệnh tật, vì đói nghèo, vì bất an bất ổn. Thập giá cũng đang đi ngang qua cuộc đời của biết bao Kitô hữu bị bách hại trong những nước có chiến tranh, xung đột. Trong xã hội văn minh của chúng ta, vẫn còn đó những cuộc giết chóc dã man, những cuộc hành hình ghê rợn mà các tín hữu vô tội phải gánh chịu, chỉ vì lý do vì họ là Kitô hữu.

 

          Mãi mãi thập giá vẫn là một chướng ngại khó vượt qua. Ngay đến cả Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, cũng đã vất vả ướt đẫm mồ hôi pha lẫn máu mới can đảm đón nhận thập giá, cho dù trước đó không dưới ba lần chính Người đã tiên báo, nghĩa là đã tiên liệu và đã có sự chuẩn bị. Thế mà lời khẳng định của Người, một lời khẳng định không thể làm giảm khinh bằng bất cứ lối giải thích nào, đó là: “Ai muốn đi theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24).

 

          Suy tư trong nghi thức Ngắm đàng Thánh Giá ta được mời gọi như hiện tại hóa mầu nhiệm thập giá trong cuộc sống hôm nay. Từ thập giá, mời gọi những người đau khổ hãy nhận ra Chúa đang hiện diện trong cuộc đời của chúng ta. Chúa hiện diện để cùng với con người vác thập giá bước đi. Tin vào sự hiện diện của Chúa, thập giá cuộc đời sẽ trở nên nhẹ nhàng, đau khổ sẽ trở thành niềm vui, bị quan sẽ thành niềm hy vọng. Bởi lẽ, con người không chỉ có đời này, mà còn có đời sau, đó là lúc “Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.”

 

          Kitô hữu là người tin Chúa và là người cùng với Chúa vác thập giá đời mình. Chính vì muốn chuẩn bị chúng ta khỏi vấp ngã trước thập giá, mà Chúa đã dạy: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống vì Thày, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Chúa còn đưa ra một so sánh để chúng ta thấy đời sống vĩnh cửu quan trọng như thế nào: “Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”. Thánh Inhaxiô Loyola đã trở thành một tu sĩ và người sáng lập Dòng Tên nhờ câu Kinh thánh này. Ngài đã từ bỏ mọi sự, chỉ thao thức làm cho nhiều người biết Chúa và tin Chúa.

 

          Theo Chúa còn có nghĩa là đi vào con đường thập giá. Chúa Giêsu có thập giá của Ngài. Chúng ta có thập giá của chúng ta.Thập giá của chúng ta là những khó khăn của cuộc sống, những lo toan của cuộc đời và những công việc bổn phận hằng ngày và ngay cả những thập giá trên bước đường thành công của chúng ta. Chính khi chấp nhận được thập giá, chúng ta sẽ thấy bình an hạnh phúc.

 

          Vác thập giá là hy sinh. Thập giá chúng ta vác không chỉ một ngày, mà là suốt cuộc đời. Có ít người nhìn vào những người đi tu, họ thấy sự hiền lành, nhân hậu vui tươi… Họ cho rằng, những người đi tu làm gì có thập giá để vác. Đó là một sai lầm, bởi thập giá luôn có mọi nơi, cắm mọi chỗ và nơi mọi người. Vì thế, chúng ta có né, có tránh cũng không được. Nếu chúng ta biết đón nhận, thì cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên dễ dàng, nhẹ nhàng. Còn nếu không, chúng ta sẽ thấy nó như một cực hình. Đó là tất cả những gì Chúa Giêsu muốn chúng ta biết và hiểu về việc đi theo Chúa là như thế nào. Theo Chúa, chúng ta phải muốn-theo-từ-vác.

 

          Theo Chúa Giêsu là đi vào con đường thánh giá dẫn đến phục sinh. Con đường từ bỏ là con đường dẫn đến vinh quang. Phải qua sự chết mới đến sự sống. Phải qua tủi nhục mới đến vinh quang. Phải qua gian khổ mới đến hạnh phúc. Khi mời gọi “Hãy theo Thầy”, Chúa muốn chúng ta triển nở đến viên mãn.

 

           Chúa mời gọi chúng ta hãy bước đi theo Chúa. Theo Chúa là bước đi trên con đường hẹp buộc phải từ bỏ con đường rộng thênh thang. Theo Chúa là đón nhận thánh giá bổn phận mà không chọn việc nhẹ nhàng. Theo Chúa là để lại sau lưng những danh lợi thú trần gian. Vì “được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào ích gì?”

 

          Có câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Một con chồn muốn vào một vườn nho, nhưng vườn nho lại được rào dậu cẩn thận. Tìm được một chỗ trống, nó muốn chui vào nhưng không thể được. Nó mới nghĩ ra một cách: nhịn đói để gầy bớt đi.

 

          Sau mấy ngày nhịn ăn, con chồn chui qua lỗ hổng một cách dễ dàng. Nó vào được trong vườn nho. Sau khi ăn uống no nê, con chồn mới khám phá rằng nó đã trở nên quá mập để có thể chui qua lỗ hổng trở lại. Thế là nó phải tuyệt thực một lần nữa.

 

          Thoát ra khỏi vườn nho, nó nhìn và suy nghĩ: “Hỡi vườn nho, vào trong nhà ngươi để được gì? Bởi vì ta đã đi vào với hai bàn tay không, ta cũng trở ra với hai bàn tay trắng”.

 

          Khi bước vào trong trần thế này, con người muốn mở rộng bàn tay để chiếm trọn mọi sự. Khi nhắm mắt xuôi tay cũng đành phải ra đi với hai bàn tay trắng mà thôi.

 

Lm. Anmai, CSsR