Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Chứng nhân hay phản chứng? - Cuộc thi vấn đáp của đời người

Tác giả: 
Lm Anmai, CSsR

 

 

CHỨNG NHÂN HAY PHẢN CHỨNG ?

 

          Sứ điệp của Đức Kitô Phục Sinh đó là : “Anh em là chứng nhân cho những điều ấy !”.

 

          Những điều ấy là những điều gì ? Xin thưa phải chăng đó là chứng về một Đức Kitô phục sinh. Một Đức Kitô đã bị người ta giết chết nhưng nay đã phục sinh và người chứng là người minh chứng cho điều đó.

 

          Như Kinh Tin Kính mà chúng ta vẫn đọc trong Lễ Chúa Nhật và Lễ Trọng, đặc biệt trong đêm vọng Phục Sinh chúng ta tuyên xưng đó là gì ? Là tin Chúa Cha là Đấng tạo thành trời đất. Là tin Đức Kitô sinh xuống làm người, chịu chết và sống lại. Là tin Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống. Là tin mầu nhiệm các Thánh thông công. Là tin xác loài người ngày sau sống lại. Là tin vào sự sống đời sau.

 

          Niềm tin mà ai đó tuyên xưng là cứu cánh của đời người đó như trong thư gửi tín hữu Roma : Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ.

 

Thư gửi Roma tiếp : Quả thế, có tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được ơn cứu độ. Thế nhưng trong lòng cũng như ngoài miệng chưa đủ. Niềm tin ấy phải là niềm tin thực hành chứ không ở trên môi miệng của người tuyên xưng.

 

          Lời tuyên xưng đức tin mà người tín hữu tuyên xưng nếu đọc chậm mất vài phút nhưng để sống lời tuyên xưng ấy đòi buộc người tín hữu sống lời tuyên xưng ấy suốt cả đời, từng giây từng phút trong cuộc đời : Đức tin không có việc làm là đức tin chết !

 

          Niềm tin vào Đức Kitô phục sinh được người tin diễn tả ngang qua đời sống của mình bằng lời ăn tiếng nói và nhất là hành động. Ai nào đó nói rằng tin vào Đức Giêsu mà không sống giới răn của Chúa thì chỉ là thanh la phèng phèng mà thôi. Tin thì phải yêu và yêu thì mới gọi là tin.

 

          Thật vậy, trong đời sống thường ngày, dấu chỉ đơn giản nhất mà người ta có thể nhận ra người tín hữu là tín hữu thật sự tin Chúa là người yêu thương anh chị em đồng loại vì Chúa đã nói : Cứ dấu này người ta nhận ra anh em là môn đệ của Thầy đó là anh em hãy yêu thương nhau. Nếu như ai không yêu thương nhau thì người đó phá vỡ điều răn của Thầy.

 

          Thực tế cuộc sống, ta sống tình yêu Chúa và tình yêu với anh chị em đồng loại như thế nào ?

 

          Với Chúa xem chừng ra dễ ! Dễ là vì ta nói với Chúa và Chúa nghe và Chúa thì không ai thấy nên có khi dễ nói lắm. Ngược lại, với anh chị em đồng loại, nói lời yêu thương, sống lời yêu thương lại là chuyện khác. Cần có biểu hiện ngang qua đời sống chứ không dừng lại ở lời nói.

 

          Và, điều này, mỗi chúng ta có thể kiểm chứng ngang qua cuộc đời của chúng ta. Ở gia đình, ở cộng đoàn chúng ta đang ở, chúng ta có sống mầu nhiệm yêu thương không ? Hay chúng ta là tác nhân của sự bất hòa, của sự hiềm khích.

 

          Ở trong nhà thì không ai làm vừa lòng, ra ngoài đường thì người ta thấy ớn. Ở trong gia đình thì không bao giờ hy sinh làm cho người khác hài lòng. Ra đường thì hơn thua đấu đá tranh giành chỗ nhất chỗ nhì. Tham gia ca đoàn, hội đoàn thì làm ra cái vẻ ta đây và bao giờ cũng thích thể hiện. Không đi tu theo kiểu bên Phật Giáo nhưng ai ai cũng có pháp danh là thích thể hiện. Luôn luôn thích thể hiện mình để rồi tôn cái tôi của mình lên. Khi tôn cái tôi của mình lên cũng là lúc đánh mất đi cái sự hiệp nhất trong hội đoàn và trong cộng đoàn.

 

          Thực tế mà nói, sau khi nghe những câu chuyện buồn về sự tranh giành, bất hòa trong ca đoàn và hội đoàn, người viết nhận được phản hồi chua xót : Giờ ở đâu cũng vậy Cha ơi ! Và có người nhắn : Sau Phục Sinh này con xin rút lui ra khỏi ca đoàn. Sau Lễ, con xin rút lui ra khỏi hội đoàn. Rồi có người rút chân ra khỏi phận vụ trong Hội Đồng Giáo Xứ vì bất hòa với Cha Xứ hay người này người kia.

 

          Nếu sống bất hòa như thế có phải là làm chứng về Đức Kitô  Phục Sinh hay không ?

 

          Có khi bi đát là trong cái Đại Lễ mừng Chúa Phục Sinh đó người ta phân tán nhau vì không có sự hiệp nhất và yêu thương. Khi không sống, không bày tỏ tình yêu thương và hiệp nhất phải chăng là chứng nhân cho Tin Mừng Phục Sinh.

 

          Chúa Phục Sinh mình phải sống khác chứ ! Chúa Phục sinh rồi thì mình phải sống với con người mới mang hình ảnh của Đức Kitô Phục Sinh chứ ! Nếu mừng Lễ Phục sinh mà mình cứ khư khư với cái con người cũ và cái tôi của mình thì xem chừng việc mừng Lễ Phục Sinh như là mừng một lễ hội hay một biến cố nào đó trong cuộc đời vì không thay đổi đời mình.

 

          Làm chứng cho Đúc Kitô Phục Sinh luôn là lời mời gọi trong cuộc đời của người Kitô hữu.

 

          Thực tế, chúng ta nhìn lại tỷ lệ người Công Giáo, chúng ta dù muốn dù không cũng phải suy nghĩ. Cái tỷ lệ người Công Giáo xem chừng ra không tăng trưởng. Có chăng là tăng theo dân số tự nhiên vì rửa tội theo Cha Mẹ là người Công Giáo hay như là rửa tội để làm đám cưới. Sau đám cưới thì không biết có sống đạo và giữ đạo hay không nữa ?

 

          Nhìn lại thực tại, nếu người Kitô hữu sống tốt, sống đúng với Tin Mừng Phục Sinh và làm chứng về những điều này như Chúa nói thì chắc chắn sẽ có người theo đạo vì cung cách sống tốt. Ngược lại, chúng ta thấy số người tin vào Chúa ngang qua đời sống của chúng ta không có là bao.

 

          Khi chết, Chúa sẽ không hỏi chúng ta có bao nhiêu cái bằng, bao nhiêu căn nhà và bao nhiêu tiền trong tài khoản. Chúa sẽ không hỏi chúng ta về những điều đó nhưng Chúa sẽ hỏi chúng ta về lòng tin cũng như lời chứng của chúng ta. Trong khi đó, chúng ta vẫn cứ đi tìm cái gì đó trong cai cõi tạm này. Cứ mãi miết đi tìm cái cõi tạm để rồi không còn thời gian và tâm trí đi tìm Chúa nữa.

 

Hãy nhớ lại lời mời gọi của Chúa để cân chỉnh cuộc đời của chúng ta. Chúng ta phải trả lẽ trước mặt Chúa lời của Chúa dặn : Anh em là chứng nhân cho những điều này.

 

Lm. Anmai, CSsR

 

***********

 

CUỘC THI VẤN ĐÁP CỦA ĐỜI NGƯỜI

 

          Người Kitô hữu, ai ai cũng biết cũng như tin rằng  mình phải trải qua 2 kỳ thi vấn đáp sau khi rời cái cõi tạm này. 1 kỳ thi vấn đáp chung và 1 kỳ thi vấn đáp riêng cho mỗi cá nhân.

 

          Kỳ thi vấn đáp cuối cùng của đời người Kitô hữu nó lạ lắm !

 

          Các câu hỏi trong kỳ thi này thí sinh không trả lời được bằng lời nói mà ngang qua hành động của mình hay những việc mình đã làm khi còn sống. Thành quả của việc mình đã làm hay hành động khi mình còn sống chính là kết quả để lọt vào vòng trong hay bị loại.

 

          Kỳ thi này lạ lắm ! Vị Giám Khảo sẽ không hỏi rằng A, B, C sau khi rời cõi tạm có bao nhiêu tiền trong tài khoản hay có bao nhiêu căn hộ hay biệt thự. Giám Khảo cũng sẽ không hỏi người đó có mấy cái bằng giáo sư tiến sĩ ở trong tay. Giám khảo cũng sẽ không hỏi thí sinh bất cứ một điều gì khác ngoài lòng mến.

 

Và rồi tiêu chuẩn này ai đo được ? Trong đời sống dương gian, thí sinh đâu có thấy Giám Khảo bao giờ đâu để mà nói với Giám Khảo biết rằng mình đã sống lòng mến ? Không ! Dù không thấy nhưng Giám Khảo vẫn ở bên thí sinh ngày từng ngày trong cuộc sống.

 

Có ứng sinh thì nói lòng mến rất hay nhưng lại không thực thi như lời mình nói. Có ứng sinh thì khi còn sống cũng làm việc bác ái, cũng sống lòng mến đó nhưng dường như là bác ái và lòng mến giả hiệu, đánh bóng tên tuổi của mình.

 

Những thể loại phô trương công đức thì Giám Khảo đã nói rất rõ : Họ đã được thưởng công rồi !

 

Giám Khảo còn nói thêm : Phần anh em ! Khi bố thí anh em đừng cho người khác biết ! Vì khi đó Cha anh em trên Trời sẽ thấy việc anh em làm.

 

Mà rồi khó cho ứng sinh đó là ứng sinh cứ nghĩ khác và Giám Khảo nghĩ khác. Giám Khảo ẩn thân nơi những con người nghèo, người bị tù đày, người đu mù câm điếc ... người bị loại trừ ra khỏi xã hội.

 

Trong đoạn Tin Mừng nói về ngày thi chung thì Giám Khảo cũng đã nói rồi cũng như đã đưa ra hình ảnh 2 bên rất rõ ràng cho chiên và dê.

 

Phần còn lại là cách sống của mỗi ứng sinh trong cuộc đời. Lòng mến đòi buộc ứng sinh phải sống hết sức tinh tế.

 

Thánh Phaolô tông đồ đã nhấn mạnh: “Lòng bác ái không được giả hình, giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành, thương mến nhau với tình huynh đệ” (Rm 12,9). Nhiều khi trong cuộc sống chúng ta dễ bị cám dỗ đánh giá việc từ thiện bác ái dựa vào những con số. Chúng ta quyên góp nhiều tiền, nhiều đồ cứu trợ, tiến hành nhiều dự án, xóa đói giảm nghèo cho nhiều người, đưa nhiều cháu đến trường,… Nhưng thiết tưởng ta nên hỏi lại mình, qua những “thành tích” đó, ta có được “lòng mến Chúa yêu người” là linh hồn của việc thực hành bác ái không?

 

Mỗi chúng ta cũng nên tự hỏi: Tôi có đang tìm hư danh cho bản thân, cho tập thể hay cho một tổ chức xã hội nào đó qua hành động bác ái này không?

 

Và chúng ta thấy Thánh Phaolô còn nói trong bài ca đức ái như sau: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt mà không có đức mến thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3).

 

Với Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI trong Thông điệp “Bác ái trong Chân lý” số 2, đã từng nói: “Mọi sự đều bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa, mọi sự đều được định hình bởi tình yêu ấy, và mọi sự đều qui hướng về tình yêu ấy”. Như chúng ta đã nghe, Chúa Giêsu đã để lại bài giảng về tinh thần làm việc bác ái thật rõ ràng. Trước hết, Ngài xin chúng ta đừng làm việc bác ái để được khen, được ngưỡng mộ vì lòng quảng đại của mình nhưng phải làm thế nào để “tay trái không biết việc tay phải làm” (Mt 6,3). Không phải chỉ bác ái bên ngoài nhưng cốt lõi phải là bác ái bên trong, bác ái mà không có tình yêu thương chỉ là bác ái giả tạo nhằm che giấu một mục đích vụ lợi, ích kỷ nào đó mà thôi.

 

Hết sức thận trọng, mỗi người chúng ta hãy tự vấn: Tôi có thực sự trao ban tình yêu cho tha nhân qua việc bác ái này không? Bác ái không phải nơi đồng tiền mình vội vàng cho, nhưng không ngừng lại được một giây, không nói chuyện với họ để hiểu họ đang cần gì.

 

Tuy cùng một lúc chúng ta có thể thực hiện được nhiều việc bác ái, nhưng đó chưa hẳn là giúp người nghèo thật sự. Đối với Mẹ Têrêsa, Kitô hữu làm việc bác ái không phải như những nhân viên công tác xã hội, nhưng là những chứng nhân tình yêu Thiên Chúa, những người đem tình yêu Thiên Chúa đến cho người anh em và đem người anh em về với Thiên Chúa. Trong khi các tổ chức xã hội lấy tiêu chí lượng giá là số lượng vật chất họ ban phát, còn Mẹ Têrêsa tuy vẫn dồn sức lực để cho ‘kẻ đói ăn, cho người khát uống’ nhưng Mẹ đặt trọng tâm của sứ vụ bác ái vào việc trở nên “sự hiện diện, tình yêu thương, lòng thương xót của Chúa” cho anh em.

 

Chúng ta nhìn lại  việc bác ái là một hành vi yêu thương, làm kín đáo mà chỉ có Chúa biết và hiểu giá trị của việc mình làm. Việc bác ái chỉ thực sự có ý nghĩa khi xuất phát từ tình yêu, yêu Chúa trong người anh em cùng khổ và yêu thương anh em như chính mình (Mt 22,39).

 

Với lời mời gọi của Chúa Giêsu, “Chính anh em hãy là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,48), Ngài đã ủy thác sứ vụ loan báo Tin Mừng cho các tông đồ, và ngày nay, Ngài cũng mời gọi mỗi người chúng ta hãy ra đi và thi hành sứ mạng ấy qua việc thực thi lòng bác ái chân thật với tha nhân.

 

Trong tận cõi lòng, chúng ta hãy ý thức rằng, làm việc bác ái để loan báo Tin Mừng và loan báo Tin Mừng bằng cách làm việc bác ái, một lòng bác ái được cụ thể hóa bằng những hành động thiết thực và phải xuất phát từ tình yêu dành cho Thiên Chúa và tha nhân.

 

Thời gian qua đi rất nhanh và rất vội. Mỗi ứng sinh (là chúng ta) phải sống như thế nào đó để chúng ta vượt qua kỳ thi vấn đáp cá nhân của mỗi chúng ta. Nếu không vượt qua kỳ thi đó thì ta như người mất cả chỉ lẫn chài. Thế gian ta cũng chẳng được mà Nước  Trời ta cũng chẳng có.

 

Lm. Anmai, CSsR