Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Chia sẻ lời Chúa thứ năm CN 2 MC

Tác giả: 
Lm Đinh Quang Thịnh

 

 

THỨ NĂM SAU CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY

Gr 17,5-10 ; Lc 16,19-31

 

BÀI ĐỌC : Gr 17,5-10

 

          5 Đức Chúa phán như sau : Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa,và lòng dạ xa rời Đức Chúa ! 6 Người đó sẽ như bụi cây trong hoang địa chẳng được thấy hạnh phúc bao giờ, hạnh phúc có đến cũng chẳng nhìn ra, nhưng sẽ ở mãi nơi đồng khô cỏ cháy,trong vùng đất mặn không một bóng người. 7 Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa , và có Đức Chúa làm chỗ nương thân. 8 Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng  ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái.  9 Không gì nham hiểm và bất trị như lòng người, ai dò thấu được?  10 Ta là Đức Chúa , Ta dò xét lòng người, thử thách mọi tâm can.Ta sẽ thưởng phạt ai nấy tuỳ theo cách nó sống và việc nó làm.

 

ĐÁP CA : Tv 1

 

Đ.       Phúc thay người đặt tin tưởng nơi Chúa. (Tv 39,5a)

 

1 Phúc thay người chẳng nghe theo lời bọn ác nhân,chẳng bước vào đường quân tội lỗi, không nhập bọn với phường ngạo mạn kiêu căng,2 nhưng vui thú với lề luật Chúa,nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày.

3 Người ấy tựa cây trồng bên dòng nước,cứ đúng mùa là hoa quả trổ sinh, cành lá chẳng khi nào tàn tạ.Người như thế làm chi cũng sẽ thành.

4 Ác nhân đâu được vậy: chúng khác nào vỏ trấu gió thổi bay. 6 Vì Chúa hằng che chở nẻo đường người công chính,còn đường lối ác nhân đưa tới chỗ diệt vong.

 

TUNG HÔ TIN MỪNG : x Lc 8,15

 

          Hạnh phúc thay người thành tâm thiện chí, hằng ấp ủ Lời Chúa trong lòng, nhờ kiên nhẫn mà sinh hoa kết quả.

 

TIN MỪNG : Lc 16,19-31

 

          19 Khi ấy, Đức Giê-su nói với người Pha-ri-sêu dụ ngôn sau đây : "Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình.20 Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu,21 thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.22 Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.

 

          23 "Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ.24 Bấy giờ ông ta kêu lên: "Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!25 Ông Áp-ra-ham đáp: "Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ.26 Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.

 

          27 "Ông nhà giàu nói: "Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con,28 vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!29 Ông Áp-ra-ham đáp: "Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.30 Ông nhà giàu nói: "Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối.31 Ông Áp-ra-ham đáp: "Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin."

 

THỰC TẠI ĐỜI NÀY CỨU TA HAY THIÊN CHÚA?

 

          Lời Chúa hôm nay soi sáng ta cần phải tránh những ngộ nhận :

 

  • Không phải ai giàu có là bị Chúa kết án.
  • Không phải ai được ăn sung mặc sướng là mắc tội.
  • Đây không phải là định luật bù trừ : Đời này khổ là tất yếu đời sau sướng và ngược lại. Vì có khi khổ đời này là dấu khổ muôn đời ; hoặc đời này sung sướng có khi lại là dấu hạnh phúc đời sau!
  • Lời Chúa hôm nay cũng chưa kết án kẻ giàu có bởi cách thu vén bất lương.

 

Giáo huấn Lời Chúa qua các Bài đọc hôm nay chỉ nhằm so sánh hai loại người :

 

  • Những kẻ chỉ trông cậy vào thực tại đời này làm thỏa mãn nhu cầu thân xác sẽ  phải khô muôn đời.
  • Người đặt niềm tin nương tựa nơi Chúa sẽ được sống hạnh phúc vĩnh cửu.

 

I. NHỮNG KẺ CHỈ TRÔNG CẬY VÀO THỰC TẠI ĐỜI NÀY LÀM THỎA MÃN NHU CẦU THÂN XÁC SẼ  PHẢI KHÔ MUÔN ĐỜI.

 

          Qua miệng ngôn sứ Giêrêmia, Chúa nói : “Đáng nguyền rủa thay kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa,và lòng dạ xa rời Đức Chúa ! Người đó sẽ như bụi cây trong hoang địa chẳng được thấy hạnh phúc bao giờ, hạnh phúc có đến cũng chẳng nhìn ra, nhưng sẽ ở mãi nơi đồng khô cỏ cháy,trong vùng đất mặn không một bóng người” (Gr 17,5-6 : Bài đọc).

 

          Ai tin tưởng nơi người đời, lấy ý phàm nhân dựa vào tiền của làm nơi nương tựa, nó sẽ trở nên ngu đầy và gây ra tội ác :

 

  • Tôn thờ cái bụng thay Thiên Chúa.
  • Dùng của vô ý thức, gây đau khổ thêm cho người nghèo.
  • Chỉ lo đến cái tôi.
  • Tìm cách kết án Chúa để chạy tội.

 

1/ Tôn thờ cái bụng thay Thiên Chúa.

 

          Đây là loại phú hộ “ngày ngày ăn mặc gấm vóc, yến tiệc linh đình” (Lc 16,19b : Tin Mừng). Đúng là nó đã “lấy cái bụng làm chúa, vinh quang đặt nơi điều đáng phải xấu hổ” (Pl 3,19).

 

             Kẻ chỉ cậy dựa vào tiền của để hưởng thụ thì lên mặt khinh kẻ nghèo, trọng người giàu. Cụ thể :“Có ngừơi đi vào đoàn hội, tiệc tùng, vàng bạc châu báu vấn đầy cổ, vòng đeo tai, lắc vàng xếp hàng nơi cổ tay, y phục bảnh bao,lại có người nghèo cùng đi vào, y phục lem luốc. Người ta chỉ trố mắt nhìn người giàu mà nói : “Xin mời ngài lên an tọa chỗ danh dự này”, còn người nghèo, người ta chỉ : “hãy đứng đó, kia”, hay “hãy ngồi dưới bệ chân người ta, thì anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và trở thành những thẩm phán đầy tà tâm đó sao?” (Gc.2,2-4).

 

          2/ Kẻ dùng tiền của vô ý thức, tăng thêm đau khổ cho người nghèo.

 

          Anh Ladarô nghèo khổ vì tam cùng :

 

  • Bần cùng : Nghèo của, nghèo tình, không ai cho một viên thuốc, chịu để lở loét khắp mình, cũng không một ai thí cho mẩu bánh thừa ăn đỡ đói.
  • Khốn cùng : Con chó thỉnh thoảng đến liếm ung nhọt trên thân thể anh : bạn tâm giao của anh chỉ có vài con chó hoang (Lc 16,20.21b : Tin Mừng) ; người Do Thái coi dân ngoại như loài chó, đáng bị khinh dể (x Mt 15,21-27), như thế anh Ladarô thấy “người ngoại” còn biết tỏ lòng thương giúp : “Chó đến liếm máu mủ của anh”. Trong khi đó người có Đạo giàu của như ông phú hộ lại không thèm ngó ngàng tới anh, bánh thừa vất xuống đất, không vất cho anh.
  • Cùng đinh : bị người ta vất bỏ trước cổng nhà giàu, không có thân nhân đưa về nhà. Anh cảm thấy tủi nhục, xem ra như Thiên Chúa cũng dồn anh vào tam cùng : “Chốn tử vong Chúa đặt con vào, quanh con bầy chó đã bao chặt rồi” (Tv 22/21, 16-17).

 

Ngôn sứ Amos khiển trách kẻ giàu đối với người nghèo : “Giàu nằm trên giường ngà, y phục bảnh bao, dầu thơm nặc mùi, yến tiệc đầy cao lương, rượu nồng hảo hạng, ca hát inh ỏi suốt ngày đêm,nhưng chẳng quan tâm đến đồng loại mình đang đau khổ” (Am 6,4-5). Đức Giêsu mô tả kẻ nghèo thê thảm hơn : Chỉ ước được ăn mẩu bánh từ bàn ông phú hộ vất xuống. đó là những miếng bánh người giàu dùng để lau chén đĩa, lau tay thay vì dùng khăn! Làm như thế để tỏ ra mình thuộc hạng quý tộc! Cho nên “phần lớn nỗi thống khổ của người nghèo, là do họ nhìn thấy người giàu dùng của phung phí vô ý thức”. Thực vậy, có những người nghèo, ta biết y phục của họ may ráp nối từng mảnh, kiếm ăn bữa no bữa đói, lúc lâm bịnh, cỏ cây hoang dùng làm thuốc, nhà ở chui rúc như hang chuột, lại sống bên cạnh nhà trọc phú, thấy người giàu rửa tiền vào những chuyện vô bổ, chỉ nội trong một ngày đi chơi, họ tiêu số tiền hơn lương trả cho một osin còng lưng phục vụ chủ suốt cả năm ; hoặc người nghèo nhìn thấy người giàu đốt từng bao thuốc đắt tiền, trị giá bằng cả tháng lương của họ ; có khi người nghèo nhìn thấy khẩu phần của con chó nhà giàu, mà ước được ăn như nó cũng chẳng ai cho!

 

          Những kẻ xài tiền của vô ý thức như thế, thánh Giacôbê nguyền rủa : “Giờ đây, hỡi những kẻ giàu có, các người hãy than van rên rỉ về những tai hoạ sắp đổ xuống trên đầu các người.Tài sản của các người đã hư nát, quần áo của các người đã bị mối ăn. Vàng bạc của các người đã bị rỉ sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người; nó sẽ như lửa thiêu huỷ xác thịt các người. Các người đã lo tích trữ trong những ngày sau hết này” (Gc 5,1-3).

 

          Kẻ dùng tiền vô ý thức đã tự đào vực thẳm sâu rộng ngăn cách giữa giàu và nghèo, người giàu vào lúc lâm nguy mới kêu cầu thần thánh cứu giúp, cụ thể như tên phú hộ khi bị dìm sâu trong hỏa ngục, hắn van xin tổ phụ Abraham sai Ladarô nghèo khổ đang ở trên Thiên Đàng, nhỏ cho hắn một giọt nước để làm dịu lưỡi, vì lửa hỏa ngục quá nóng, nhưng bị tổ phụ Abraham khước từ : “Con ơi, hãy nhớ lại suốt đời của con, con đã nhận phần phước của con rồi ; còn Ladarô suốt đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khổ. Hơn  nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không thể được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16,25-26 : Tin Mừng).

 

          3/ Kẻ chỉ lo đến cái tôi.

 

          Tên phú hộ lúc sống chỉ biết làm vui thỏa cái TÔI trong yến tiệc linh đình … Chính vì cái TÔI to phình ấy, nên bị quăng tùm xuống đáy hỏa ngục, trong lò lửa ác nghiệt hắn vẫn không biết thương xót ai, lửa không làm teo cái TÔI của hắn, mà dường như còn phình to hơn, như lời hắn kêu van : “Lạy cha Abraham, xin thương xót TÔI , và sai Ladarô nhúng một chút nước vào đầu ngón tay mà nhỏ vào lưỡi TÔI, vì TÔI đang quằn quại trong ngọn lửa này” (Lc.16, 24 : Tin Mừng).

 

          Trong hỏa ngục thiếu gì người khổ quanh hắn, thế mà hắn chỉ xin MỘT giọt nước nhỏ trúng tọa độ lưỡi TÔI mà thôi ! Sao hắn không xin mấy thùng nước tạt xuống khắp hỏa ngục, ít là mỗi người cũng đuợc một chút nước làm dịu mát !? Hắn xin một giọt nước không ai cho, hắn lại “xin tổ phụ  Abraham sai Ladarô về răn dạy năm anh em TÔI, để chúng đừng bắt chước sống như TÔI sẽ phải khổ” (Lc 16,27-28 : Tin Mừng). Như thế hắn vẫn dừng lại cái TÔI nơi năm anh em, sao hắn không xin Ladarô về báo tin cho tất cả mọi người giàu trên thế gian biết cách dùng tiền của đúng ý Chúa ? Cái TÔI nó là bản năng con người xuất hiện ngay khi còn trong bụng mẹ. Điều này đã được minh chứng trong truyện bà Rêbêcca (x St.25,19-27), và truyện bà Thamar (x St.38,27-30). Cả hai bà này đều mang thai đôi, hai đứa đánh nhau trong bụng đứa nào cũng đòi tranh ra trước, vì làm anh được hưởng 2/3 gia tài của cha mẹ (x Dnl 21,17). Các bà quá đau vì chúng đánh nhau trong bụng, nên đã dặn cô đỡ : “Cháu nào ra trước, xin cô lấy chỉ đỏ buộc vào tay cháu, kẻo hai đứa sinh cùng khuôn, rất khó phân biệt đứa nào là anh, đứa nào là em!” Một đứa nghe thế liền  thò tay ra khỏi cửa mình mẹ, để được buộc chỉ đỏ, đứa kia tức khí đạp cho đối phương một phát, vì bị đạp đau, nó thụt tay vào, đứa kia chui vọt ra !

 

Bởi thế, vua thánh Đavid nói : ‘Từ trong thai mẫu, tôi đã là kẻ bất chính, ngày mới sinh, tôi đã mắc tội rồi !” (Tv.51/50, 7)

 

          Có đôi vợ chồng kia bất hòa với nhau đòi chia gia tài. Chồng nghĩ rằng mọi đồ dùng trong nhà đều do tiền mình làm ra mua sắm, nên anh nắm chắc mình phải được phần nhiều hơn. Trong khi đó vợ lại nghĩ của chồng công vợ, mình không cần kiệm gìn giữ thì nhà chẳng có gì, cho nên mình phải được chia nhiều hơn chồng. Do đó, chị nói với chồng:

 

  • Đồ gì trong nhà là CÁI, thuộc phái nữ, đó là của tôi. Và chị bắt đầu đếm : cái tủ, cái giường, cái tivi, cái xe, cái nhà…

Chồng nghe thế, thì trong nhà này chẳng còn vật gì là của anh, anh vội đứng lên chụp con dao rựa dùng chặt cây, và quát :

  • Mẹ mày, ĐỰC rựa đây!

4/ Kẻ giàu tìm cách kết án Chúa để chạy tội.

 

          Tên phú hộ xin tổ phụ Abraham cho Ladarô hiện về răn dạy năm anh em hắn, không phải vì hắn có lòng thương muốn cứu anh em, nhưng đó chính là mánh lới hắn muốn tìm cách chạy tội, nếu tổ phụ Abraham nhận lời đề nghị này của hắn, chắc chắn hắn có cớ quy tội cho Chúa : Tôi nay bị khổ dưới hỏa ngục là do lỗi của Chúa đã không cho người chết hiện về báo cho tôi, Ngài đã không làm mọi cách để giáo dục người ta. Tôi đây là nạn nhân !? Thực tế thì Chúa đã cho anh La-da-rô, em của Matta và Maria thuộc gia đình giàu có sống lại, để với trải nghiệm dùng tiền của người giàu mới biết mà dạy người khác (x Ga.11). Nhưng người ta lại muốn giết La-da-rô giàu có, chứ nào có ai muốn nghe người giàu sống lại dạy đâu !? (x Ga 12, 10).

 

          Mặt khác, nếu tổ phụ Abraham nhận lời phú hộ cho Ladarô nghèo khó sống lại về răn đời, thì  người nghèo làm sao có kinh nghiệm dùng của để dạy người giàu ? Và nếu chỉ nghe lời người chết về dạy, thì Chúa tự hạ giá lời các ngôn sứ thấp hơn lời kẻ chết sống lại sao ? Do đó tổ phụ Abraham đã trả lời cho tên phú hộ : “Chúng đã có Môsê và các ngôn sứ, chúng phải nghe các ngài” (Lc 16,29 : Tin Mừng). Vậy xưa tên phú hộ xin cho Ladarô nghèo sống lại để dạy người còn sống biết dùng tiền của, làm sao sánh bằng hôm nay ta đi dâng Lễ, được gặp chính Con Thiên Chúa Phục Sinh từ Trời đến dạy (x Dt 1,2), nhưng liệu ta có nghe không ?

 

           Vì thế thánh Phaolô lên tiếng cảnh giác : “Nếu chúng ta cố tình phạm tội sau khi đã học biết sự thật, thì không còn hy lễ nào đền tội được nữa, mà chỉ còn phải sợ hãi đợi chờ cuộc phán xét và ngọn lửa nóng bừng thiêu huỷ các đối tượng của Thiên Chúa. Ai khinh thường luật Môsê, theo lời chứng của hai hay ba người, thì sẽ bị xử tử thẳng tay. Phương chi kẻ đã chà đạp Con Thiên Chúa, đã xúc phạm đến Máu Giao Ước đã thánh hiến mình và nhục mạ Thần Khí ban ân sủng, thì anh em thử nghĩ xem, kẻ ấy đáng chịu hình phạt ghê gớm hơn biết mấy! (Dt.10, 26-29).

 

II. NGƯỜI ĐẶT NIỀM TIN NƯƠNG TỰA NƠI CHÚA SẼ ĐƯỢC SỐNG HẠNH PHÚC MUÔN ĐỜI.

 

          Đức Giêsu chúc phúc cho người nghèo đặt niềm tin nơi Thiên Chúa, chỉ mong được Nước Trời làm gia nghiệm (x Mt 5,3). Họ nghèo vật chất nhưng lại giàu Lời Chúa, giàu lòng nhân ái, đó mới thực là nghèo giống Chúa Giêsu (x 2 Cr 8,9). Vì thế ngôn sứ Giêrêmia nói :  “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa , và có Đức Chúa làm chỗ nương thân.  Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi, gặp năm hạn hán cũng chẳng  ngại, và không ngừng trổ sinh hoa trái” (Gr 17,7-8 : Bài đọc).  Rõ ràng ngôn sứ mô tả người đặt niềm tin nương tựa nơi Chúa là người đang thực hành lời kinh : “Ai vui thú với Lề Luật Chúa, nhẩm đi nhắc lại suốt đêm ngày, người ấy tựa cây trồng bên suối nước…” (Tv 1,2-3). Thật “hạnh phúc thay người thành tâm thiện chí, hằng ấp ủ Lời Chúa trong lòng, nhờ kiên nhẫn mà sinh hoa kết quả” (Lc 8,15 : Tung Hô Tin Mừng). Như thế  người nghèo được Chúa thương chúc phúc, và được hưởng Tín điều Các Thánh Cùng Thông Công.

 

1/ Người nghèo được Chúa thương chúc phúc.

 

          Thực vậy, Chúa Giêsu không nói gì về công đức của anh Ladarô,  vì chính Ngài lấy tên Ladarô đặt tên cho người nghèo khổ, tên ấy có nghĩa là “người được Chúa thương xót”.

 

          Như vậy lý do chính người ta được cứu độ là do lòng thương xót của Chúa, đó mới gọi là ơn, nếu do việc ta làm thì đó là công. Bởi vậy ơn cứu độ được gọi là ơn nhưng không. Đúng như lời kinh ta vừa đọc : “Phúc thay người đặt niềm tin tưởng nơi Chúa” (Tv 40/39,5a : Đáp ca)

 

2/ Được hưởng Tín Điều Các Thánh Cùng Thông Công.

 

Đức Giê-su có ý lấy tên Ladarô đặt cho anh nghèo khổ này, chắc chắn Ngài muốn cho mọi người phải nhớ đến anh Ladarô em của hai chị Matta và Maria, là gia đình giàu có, Ladarô đã chết thối bốn ngày được Đức Giêsu cho sống lại (x Ga 11), là để thưởng công cho chị Maria chỉ để tâm nghe Lời Đức Giêsu, và chị Matta mải miết dọn tiệc thiết đãi Đức Giêsu để bồi dưỡng nghị lực đi phục vụ (x Lc 10,38-42). Mà chính Đức Giê-su tự nhận mình sống tinh thần ngôn sứ Êlya và ngôn sứ Êlysê (x Lc 4,25-27), thì Ngài không thể thua hai ông này :

 

  • Ngôn sứ Êlya cho con bà góa Sarepta sống lại, vì bà góa nghèo khó này chỉ có một chiếc bánh đã nhường cho ngôn sứ Êlya ăn (x 1 V 17, 7t).
  • Ngôn sứ Êlysê cho con bà lớn thành Shunem sống lại, vì bà vẫn giúp ông có nơi trú ngụ (x 2 V 4,18-37).
  • Kìa ông Giakêu lấy nửa gia tài chia sẻ liền được Đức Giêsu tuyên bố: “Cả nhà ông được cứu độ” (x Lc 19,9), huống chi cả hai chị Matta và Maria, người thì để tâm nghe Lời Chúa, người thì lo dọn bàn ăn mời Đức Giêsu dùng, mà Ngài không cứu em họ khỏi chết hay sao ?

 

Bởi đó, ơn cứu độ ta được trước nhất là do lòng thương xót của Chúa, thứ đến ta được hưởng nhờ Tín Điều Các Thánh Cùng Thông Công.

 

          Qua dụ ngôn phú hộ và Ladarô trên đây đã làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Giêrêmia : “Không gì nham hiểm và bất trị như lòng người, ai dò thấu được?  Ta là Đức Chúa , Ta dò xét lòng người, thử thách mọi tâm can. Ta sẽ thưởng phạt ai nấy tuỳ theo cách nó sống và việc nó làm” (Gr 17,9-10 : Bài đọc).

 

          Do đó thánh Phaolô viết thư cho môn đệ Giám mục Timôthê nhằm khuyên hết mọi người : “Chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được. Vậy nếu có cơm ăn áo mặc, ta hãy lấy thế làm đủ” (1Tm 6, 7-8). Như Lời Kinh Thánh ta vẫn đọc : “Dù sống trong danh vọng, con người cũng không thể trường tồn, thật nó chẳng khác chi con vật một ngày kia phải chết. vì khi chết nó đâu mang được cả, kiếp vinh hoa chẳng theo xuống mộ phần!” (Tv 49/48,12.18).

 

          Sau khi chúng ta tìm hiểu dụ ngôn phú hộ và Ladarô, điều cần chú ý hơn cả là : người giàu có về của cải mà không biết chia sẻ, chỉ ăn sướng mặc sang, lo cho bản thân, tội ấy còn nhẹ hơn loại “người nghèo của lại nghèo cả Chúa”, loại người này chẳng bao giờ đi tìm của nuôi linh hồn, nó dồn hết thì giờ vào việc tìm kiếm của cải vật chất để lo hưởng thụ, làm ít ăn nhiều, có tiền là tiêu phung phí vào việc ăn chơi vô bổ, chẳng bao giờ giúp ai được điều gì, thấy người giàu hơn mình thì bất mãn và trách Chúa bất công : đã cho kẻ vô đạo giàu hơn kẻ có đạo như mình ! Loại nghèo này luôn mơ ước làm giàu, nhưng đời này vẫn nghèo vẫn khổ, chắc chắn đời sau khổ hơn nữa ! Xuống hỏa ngục còn bị tên phú hộ giàu của ngồi trên đầu nó!

 

          Ông Alfred Adler nói : “Kẻ nào không quan tâm tới người khác, chẳng những nó gặp nhiều khó khăn trong đời, mà còn là kẻ gây tai họa cho xã hội”.

 

Một người phụ nữ có danh là Bà Chằng, mọi người vẫn gọi như thế vì nó hợp với bản tính dữ dằn của bà. Khi bà chết, quỷ liền lôi ngay bà đi, vì nó cho rằng bà này sống ích kỷ và rất khó nết với mọi người, chắc chắn sẽ xuống hỏa ngục không cần đợi Chúa xét xử nữa !

 

Thiên thần bản mạnh của bà giằng co với quỷ và kêu nài với Chúa :

 

-     Xin Chúa xét xử cho bà này theo lòng thương xót của Ngài. Không thể để quỷ lôi bà đi ngay được!

 

-     Con hãy mở sổ Nhật Ký xem bà có làm một điều tốt nào cho ai không? Thiên Chúa nói với thiên thần.

 

Thiên thần mau mắn lật từng trang nhật ký về đời sống Bà Chằng, lật cả mấy ngàn trang rồi mà chẳng thấy có việc tốt nào cả… À, may quá, thiên thần reo lên và thưa với Chúa :

 

  • Lạy Chúa, có một lần bà này đã cho người lối xóm một cọng hành ạ!
  • Thế thì con hãy dùng cọng hành ấy mà kéo bà ấy lên! Chúa bảo thiên thần.

 

Thiên thần mau mắn làm ngay. Bà Chằng bám vào cọng hành và được thiên thần kéo lên. Thấy vậy nhiều người dưới Hỏa ngục vội bám theo bà mong được “ăn theo”, Bà Chằng vừa giãy đạp, vừa chửi …! Thế là cọng hành bị đứt, cả chùm người lại rơi xuống Hỏa ngục!!

 

Hãy nhớ lời các Tông Đồ dạy :

 

Đức ái phủ lấp muôn vàn tội lỗi!” (1 Pr 4,8). Vì “ai có lòng nhân ái thì được thắng án, án xử chỉ tàn nhẫn cho kẻ bất nhân!” (Gc 2,13).

 

THUỘC LÒNG.

 

          Chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được.Vậy nếu có cơm ăn áo mặc, ta hãy lấy thế làm đủ. Còn những kẻ muốn làm giàu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu xuẩn độc hại ! (1Tm 6,7-9)

 

http://phaolomoi.net

Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH