Niềm Tin Là Sức Sống
Niềm Tin Là Sức Sống
Lời mở đầu:
Đây là cuốn sách về tâm linh, tôn giáo.Tôi viết về những sự việc mầu nhiệm đã xảy ra trong cuộc đời của tôi từng bước một, theo từng bước thời gian diễn tiến và tôi là một người con được nhiều Hồng Ân của Đức Chúa Trời (còn được gọi là Đấng Tạo Hóa hay Thượng Đế) ban cho. Sau khi tôi được Đức Chúa Trời mở mắt tôi vào ngày 3 tháng 11, 1993 tôi được thấy rõ Kingdom của Ngài (hay còn được gọi là Nước Trời tại thế gian) và khi tôi nói ra thì chỉ phạm vi gia đình tôi nghe và một vài người bạn thân mà chưa chắc là mọi người đã tin tôi. Sau nhiều năm suy nghĩ mãi và tôi tự nhủ nếu thấy được Nước Trời tại đây do Đức Chúa Trời tạo dựng nên và qua lời Con của Ngài, Đức Chúa Giêsu đã nói qua Kinh Lạy Cha:
“Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời…”
mà tôi không nói, không phổ biến ra, không chia sẻ về sứ điệp Tin Mừng của Chúa Cứu Thế và sự hiền hữu Nước Trời tại đây thì tôi có lỗi, nên tôi quyết định viết cuốn sách này.
Tôi cầu nguyện Đức Chúa Trời cho tôi được phổ biến rộng rãi trong phạm vi lớn hơn những gì tôi đang thấy bằng mắt và cả những gì tôi không thấy được mà chỉ hiểu bằng trí tuệ về Sự Sống mà Ngài đã tạo dựng nên cả vũ trụ bao la này, sự sống với muôn màu sắc linh động và trong sáng vô cùng, đến nỗi nhiều lần tôi phải quì lạy tạ ơn Ngài đã cho tôi thấy rõ sự thật.
Sự sống trên quả đất này là một sự kết hợp ÂM DƯƠNG và luôn phát quang sinh động và chúng ta chính là hình ảnh của Ngài (IMAGE OF GOD) là sự thương yêu được thể hiện qua chúng ta để làm sáng danh Ngài và để Nước Trời tại đây mỗi ngày càng hiện rõ ra hơn. Chúng ta được Ngài ban cho sự sống và tình thương và từ chổ không có gì đến sự sống vĩnh hằng trên Thiên Đàng (FROM NOTHING TO ETERNITY) thật là một sự mầu nhiệm vô cùng và Đức Chúa Trời chỉ có một mà thôi.
Sau đây tôi xin được giải thích về đề tựa của cuốn sách tại sao Niềm Tin là sức sống. Sức sống là sự trổi dậy, vươn lên từ sự sống, niềm tin cua chúng ta vào Đức Chúa Trời (IN GOD WE TRUST) dù chỉ nhỏ bằng hột cải thôi, thì trong ta cảm nhận có sức sống rồi. Niềm tin là từ ánh sáng trí tuệ soi sáng hướng dẫn chúng ta tìm đến Sự Thật để biết chúng ta là ai? Tại sao có mặt nơi này? Mục đích cuộc sống là gì? Và sống như thế nào? Và cuối cùng sau khi chết chúng ta se đi về đâu?
Niềm tin sẽ giúp chúng ta thấy rõ, giải thích và trả lời được tất cả những câu hỏi trên. Sự vươn lên, sự trổi dậy từ sự sống mỗi ngày (RISE AND SHINE) giúp chúng ta phấn khởi, yêu đời hơn và luôn an vui trong cuộc sống vì chúng ta biềt rõ chúng ta là con của Ngài, chúng ta phải sống theo giới luật giữ 10 điều răn, cùng nối tiếp nhau mỗi người một phận sự, cùng xây dựng Nước Trời và làm sáng danh Cha dưới quả đất này, chúng ta phải luôn biết ơn và cám ơn vì chính sự sống của chúng ta là một món quà, là Hồng Ân được Ngài ban cho.
Cuộc đời của tôi với những sự việc mầu nhiệm mà Đức Chúa Trời dã sắp đặt sẵn từ khi tôi còn trong lòng mẹ. Mẹ tôi kể lại lúc sanh tôi ra, chuông nhà thờ đổ liên hồi 12 giờ khuya, ngày 31 tháng 12, 1944 vào thời Pháp thuộc, đa số dân chúng họ thức đến nữa đêm đi đến nhà thờ cầu nguyện và làm tiệc ăn mừng năm mới, nhất là ở thành phố lớn như SàiGòn, tôi được sanh ra tại nhà bảo sanh Khánh Hội và Cô Mụ 5 là người lo cho mẹ tôi. Sau khi tôi được sanh vài tuần và tôi bị đau nặng, mẹ tôi nói tưởng tôi qua đời vì bác sĩ không còn cách cứu chữa, mẹ tôi lo quá và chợt nhớ ra những điềm mộng lúc bà đang có thai (điềm mộng này tôi mới được nghe kể lúc tôi 24 tuổi sau ngày tôi gặp lại cha mẹ đỡ đầu của tôi/ God Parents…).
Một đêm, mẹ tôi nằm mơ thấy đi vào nhà thờ và thấy các Bà Phước đang đứng vây quanh cái nôi ngắm nhìn 1 bé gái, căn phòng thắp sáng toàn là đèn cầy màu trắng. Bà giật mình thức giấc và có thắc mắc là tại sao mình là Đạo Phật mà lại thấy bên đạo Công Giáo, nhưng bà rất mừng là biết chắc mình sẽ sanh đứa con gái, chỉ vậy thôi. Và gần đến ngày sanh, mẹ tôi lại nằm mộng 1 lần nữa (điềm mộng này mẹ tôi giấu kín không kể lại cho tôi nghe và người em trai tôi hiện đang sống ở Đan Mạch mới kể lại cho tôi nghe năm 2007, tức là tôi đã được 63 tuổi mới được biết rõ chuyện này.) Vài hôm trước ngày sanh tôi, mẹ tôi lại thấy nhiều thiên thần Nữ bay trên không và nói với bà: “Bà sẽ sanh 1 bé gái và sẽ đem nhiều phúc lộc đến gia đình Bà”.Mẹ tôi choàng thức dậy toát mồ hôi, vừa mừng vừa sợ vì cả 2 điềm mộng đều là bên đạo Thiên Chúa. Nên sau khi tôi bị đau nặng và sợ nuôi tôi không được nên ba mẹ tôi quyết định tìm một gia đình có Đạo để cho tôi vào Đạo Thiên Chúa, và sau khi được rửa tội và được đặt tên thánh Mary, nhưng vì chữ Việt không có 2 vần nên lấy 2 chữ đầu và cuối ghép lại thành MỸ và tên này được gọi mỗi ngày như là 1 phép lạ, tôi dần dần khỏi bịnh và nuôi tới lớn khỏe mạnh (tên trong giấy khai sanh của tôi là Thân).
Trước ngày cưới của tôi vài tháng, tôi được gặp mặt Cha Mẹ đỡ đầu của tôi, tôi có thắc mắc hỏi Mẹ tôi: “Hai ông bà đó là ai và tại sao cả hai ông bà lại thương con rất nhiều vậy? Rồi trong ngày cưới lại cho con nhiều món quà đắc giá và lại giúp đỡ người cháu của Mẹ có việc làm trả lương rất hậu và lại nói là trả ơn cho gia đình nữa? ”
Mẹ tôi mới bắt đầu kể lại câu chuyện như sau:
Hồi xưa Ba Mẹ tôi mới lập gia đình từ GòCông lên SàiGòn làm ăn, nhà rất nghèo chỉ có 1 số vốn nhỏ, ba tôi lại thất nghiệp, hằng ngày mẹ tôi phải buôn bán quần áo cũ bên lề đường, nhà ở trong xóm lao động tại Khánh Hội và Ba Mẹ đỡ đầu của tôi cũng rất nghèo, ông bà bán khô mực nướng và hột vịt lộn luộc ở trong xóm, nhưng đặc biệt chỉ ngày Chúa Nhật phải nghỉ bán để đi nhà thờ, vì vậy Ba Mẹ tôi mới được biết gia đình này là nhà có Đạo và sau khi nghe những điềm mộng của mẹ tôi kể lại, ông bà liền vội vàng nhận tôi làm con đỡ đầu liền và 2 gia đình bắt đầu thân thiện từ đó. Vài năm sau, Ba tôi được việc làm thông dịch cho Cò Tây và sau ông làm Cò Việt Nam ở ty Cảnh Sát Quận Nhất, nên ba mẹ tôi phải dời nhà về Vĩnh Hội, gần chợ xóm Chiếu, và cha mẹ đỡ đầu cũng đổi đi làm ăn nơi khác, hai gia đình mất liên lạc từ đó.
Sau khi tôi 24 tuổi, Ba tôi tình cờ đi vào tiệm bán đèn điện ở đường Huỳnh Thúc Kháng, tiệm đèn tên Nguyễn Văn Ngọ (là tên cha đỡ đầu của tôi) và hai ông gặp lại nhau, tay bắt mặt mừng, hiện giờ thì hai ông bà quá giàu sang, có vài tiệm buôn bán. Và câu hỏi đầu tiên cùa ông là: “Mỹ, con gái của tôi đâu? Hiện giờ ra sao rồi? Tôi nhờ nó mà được khá giả như ngày hôm nay”. Ông bắt đầu kể tiếp là sau khi nhận tôi làm con nuôi, vài năm sau ông bà làm ăn phát tài một cách bất ngờ và có đi tìm kiếm gia đình chúng tôi nhưng không gặp cho mãi tới hôm nay. Tôi còn nhớ tôi hay gọi ông là Ba Đèn vì ông bán đèn điện và kể từ đó tôi mới biết tôi là người Đạo Thiên Chúa. Cứ mỗi lần gặp Ba Đèn thì thường nhắc nhở tôi phải đi nhà thờ nhưng thật ra lúc đó tôi không có để ý gì hết, mãi lo bận rộn với cuộc sống vật chất với gia đình mà không màng biết phần tâm linh, tôi như người có mắt mà không thấy đường, con mãi quờ quạng trong bóng tối mà quên đi món quà quí giá nhất mà Đấng Cưú Thế đã ban tặng cho hằng sống muôn đời.
Cuộc đời tôi có nhiều giai đoạn và di chuyển nhiều nơi theo thời gian. Lúc tôi khoảng 5 tuổi, mẹ tôi cùng Bà ngoại tôi trở về quê cũ tại thành phố Gò Công. Mẹ tôi rất có hiếu muốn đem Bà Cố tôi về phụng dưỡng nên mua nhà cho hai Bà và đưa tôi về ở Gò Công đi học, còn mẹ tôi ở SàiGòn mỗi tháng đều về thăm viếng . Hồi tôi còn nhỏ, tôi được học lớp Mẫu Giáo trường Bà Phước nên sau này khi tôi vào nhà thờ, những hình ảnh của các Bà Phước mặc áo đầm trắng dài chấm gót, đôi mũ rộng vành, trên ngực đeo sợi dây chuyền thánh giá thật dài trông rất đẹp, hình ảnh của Gia Đình Thánh Thất và cách làm dấu thánh giá thuần thục của tôi, như là một dấu ấn trong trí óc tôi mà tôi không bao giờ quên được. Năm 2007, tôi có về quê Ngoại và viếng qua trường Bà Phước, tôi xúc động và khóc thật nhiều và trong lòng vẫn còn hờn trách mẹ tôi vì tại sao lại dấu tôi tất cả sự thật về đời tôi, nhưng chừng suy nghĩ lại đó chẳng qua là sự xếp đặt sẵn của Chúa Cứu Thế từng bước một trong suốt cuộc đời của tôi, nên tôi không còn phiền trách mẹ tôi nữa. Tôi còn nhớ em tôi nói: “Mẹ dấu Chị nhưng có nói với em là chắc chắn sau này Chị sẽ trở về đạo Thiên Chúa nhưng không biết lúc nào và bằng cách nào vì Chị không phải bên đạo Phật, nên em không có ngạc nhiên”. Thật là một sự mầu nhiệm, tôi là một đứa con đi lạc đường, nay đã quay về nhà của Cha mình. Sau khi tôi học xong bậc Tiểu Học, tôi lại di chuyển về Đức Hòa vừa đi học vừa giúp cửa hàng đứng bán thuốc Tây, nhà thuốc này của Cậu tôi vì Mợ tôi đau nặng sau khi sanh. Tôi học xong bậc Trung Học tại đây và về lại SàiGòn thi vô trường Sư Phạm và đi dạy năm 1962 tại Gò Vấp, tôi bận rộn suốt ngày trong thời gian này, vừa đi dạy vừa đi học để thi Tú Tài, sau này tôi về dạy trường Phú Thọ Hòa.
Sau khi lập gia đình, tôi học tại Trung Tâm Thính Thị Sinh Ngữ và chuyển lên giáo Sư cấp hai dạy Anh Văn, tôi lại chuyển qua dạy trường Bình Trị Đông và sau năm 1975 tôi về dạy trường Đồng Tiến và sau cùng là trường Nguyễn Tri Phương, tôi có tiếp tục học lên Đại Học Văn Khoa đậu được chứng chỉ Nhân Văn và sau đó vì thời cuộc nên tôi không còn tiếp tục học nữa. Đoạn trên tôi chỉ sơ lược về thời gian và quá trình diễn tiến những nơi tôi đã sống và làm việc lúc còn ở quê nhà .
Đến năm 1982, sau khi mẹ tôi đã qua đời vài năm, em tôi tìm cách vượt biên và được định cư tại Đan Mạch. Còn gia đình tôi được bảo lãnh qua Mỹ về diện đoàn tụ gồm 7 người, mẹ chồng, vợ chồng tôi và bốn đứa con, nhờ Cô em chồng bảo lãnh qua Mỹ và định cư tại New York. Còn công việc làm, vợ chồng tôi không có bằng cấp tại Mỹ, vừa qua đến nơi là phải lo buôn chải nuôi con (đứa gái lớn 13 tuổi và đứa trai út 7 tuổi ).
Và sau đây là phần chính của cuốn sách. Đức Chúa Trời đã mở mắt tôi vào ngày 3 tháng 11, 1993 và đã làm thay đổi cuộc đời của tôi từ thời gian đó đến ngày hôm nay. Tôi còn nhớ rõ lúc đó khoảng 3 giờ chiều, sau khi chồng tôi đi làm, năm ấy tôi đang thất nghiệp, tôi dang nghỉ trưa chứ không có ngủ, bên tai đang nghe băng cassette lời giảng của một vị thầy bên đạo Phật về cuộc đời là bể khổ, là huyển hóa, ..v….v…, chợt trong đầu tôi nghe một cái “ bựt” như là ai đánh diêm quẹt, bật sáng lên. Tôi bình thản và ngồi dậy, tưỏng là mình bị đứt mạnh máu não, ngồi một lúc lâu tôi cảm thấy không phải vậy vì đầu óc rất là tỉnh táo, tay chân vẫn cử động bình thường, tôi đi quanh trong phòng vài giây, xong mới mở cửa bước ra đến phòng khách, tôi thấy Mẹ chồng và con gái tôi đang ngồi trò chuyện (lúc đó con gái tôi đang mang thai nên vợ chồng dọn về ở chung). Tôi giựt mình khi nhìn Mẹ chồng và con tôi không còn cái nhìn, cái thấy giống như trước nữa, tôi vội quay về phòng và ngồi yên suy nghĩ tại sao như vậy? Không có bể khổ, không có huyền hóa gì hết mà là sự sống, sự thật hiện hữu, hiển hiện là đây, tôi muốn ra ngoài xem sao nên tôi lái xe đi chợ gần nhà, mọi cảnh vật chung quanh tôi giờ quá rạng rỡ, muôn màu sáng đẹp vô cùng, tất cả sự sống chung quanh làm bừng sáng trong ánh mắt tôi. Tôi như người từ đâu mới tới, Nước Trời tại đây đang phơi bày rõ ràng, tôi như người mù vừa được mở mắt. Tôi vội về nhà với tâm trạng vui mừng hớn hở vì cứ nghĩ là ai cũng thấy được như mình, nên tôi mới huyên thuyên, các con tôi vừa đi học về tôi bảo chúng ngồi xuống nghe tôi nói: “Các con đừng lo nữa, chúng ta đang ở Kingdom của Ngài, ai cũng là con của Ngài hết.” đại khái như vậy, tôi nói mà không ai hiểu gì hết và cả gia đình cho là tôi bị ai nhập hay mất trí, riêng con rể và chồng tôi không nghĩ như vậy, chắc là tôi đã thấy được cái gì đó ngoài tầm mắt của người bình thuờng (con rể tôi là người đạo Thiên Chúa và cả con gái tôi cũng vào đạo trước ngày cưới). Sau đó vài ngày, tôi cứ nói và diễn tả mãi về Nước Trời tại đây và bắt mọi người phải lắng nghe. Con rể tôi vào sở làm tâm sự với một người bạn và được biết thời gian này có một vị Thầy (tôi xin được dấu tên những nhân vật và cả họ hàng thân thuộc của tôi trong cuốn sách này) là người Việt Nam, ở cách nhà 45 phút, thế là con rể tôi khuyên tôi nên đi gặp vị Thầy này. Sau khi được nghe tôi kể lại, vị Thầy khuyên bảo tôi: “Bà đã thấy được sự thật nhưng tôi mong Bà không nên nói ra vì không có ai thấy được như Bà, họ sẽ cho Bà là người không được bình thường thì tội nghiệp cho Bà, tôi đây đã tu tập trên mười năm mà cũng chưa thấy được, nhưng tôi biết được qua kinh sách của các vị Tổ để lại (các vị Tổ tức là bên Đại Thừa của đạo Phật). Từ nay Bà có muốn nói thì gọi điện thoại nói vói tôi thôi. Tôi giựt mình sững sờ, thì ra không có ai thấy được như tôi, cả vị Sư này nữa và tôi rất mừng và biết là Đức Chúa Trời đã mở mắt tôi. Về nhà tôi bắt đầu không nói nhiều nữa mà lại viết xuống, nhờ viết ra nên đầu óc tôi thư giãn lần, như người vừa trút bỏ gánh nặng, trong cảm thấy nhẹ nhàng thanh thản và tôi biết tôi là ai rồi.
Tôi đang nhìn thấy được Sự Thật là cỏi này không bao giờ tận diệt, sự sống và tình thương nối tiếp nhau muôn đời, sự kết hợp ÂM DƯƠNG thật là kỳ diệu, sự hiện hữu của mọi sinh vật trên đời này đều cho vinh danh Đức Chúa Trời (Everywhere you look, that’s God’s fingerprints) bàn tay sáng tạo của Đức Chúa Trời như một bức tranh tuyệt tác nhất là con người chung ta với ánh sáng trí tuệ, luôn phát quang sinh động, chúng ta là con của Ngài và là hình ảnh của Ngài. Cõi này không gọi là bể khổ theo cái nhìn bi quan nữa, mà phải luôn lạc quan vì sự sống trong chúng ta là một hồng phúc, hồng ân, một món quà vô giá mà Ngài đã ban cho. Niềm an lạc, sự bình an đã có sẵn mỗi con người hòa vào sự thanh tịnh trong vũ trụ bao la của trời đất chẳng những chỉ trong cuộc đời này, mà là vĩnh cữu, vĩnh hằng muôn đời sau. Tôi luôn ghi nhớ và cám ơn Đức Chúa Trời tôi phá được cái vỏ tự ngã, ngã chấp, tự ta làm, tự ta trả, cứ lẩn quẩn vay trả, trả vay mà quên đi sự thương yêu và luôn luôn tha thứ của Cha ta.
Như Chúa Cứu Thế đã nói:
“Hãy Sám Hối và tin vào Tin Mừng.” Là con người ai chẳng có lỗi lầm và Chúa đã nối kết lại lòng sám hối và tin mừng, lòng thương xót, thương yêu và tha thứ.
Hằng ngày tôi luôn cầu nguyện cho tất cả mọi nguời đều được ơn gọi, chẳng phải riêng tôi là nhân chứng mà tất cả đều là nhân chứng và cùng đi Rao Giảng Tin Mừng của Chúa Cứu Thế, vì chúng ta chỉ có một Đức Chúa Trời mà thôi.
Những câu hỏi và những câu thắc mắc trước đó đã được giải đáp rỏ ràng, Thiên Chúa cho ta sự sống và tình thương, cha mẹ truyền sự sống và một tình yêu làm người. Thiên Chúa ở cùng ta và chúng ta có biết ở cùng Chúa hay không? Có làm sáng danh Ngài hay không? Riêng tôi, tôi luôn biết ơn và tạ ơn, tôi cầu nguyện hằng ngày vì cầu nguyện là điều quan trọng bậc nhất cho sứ mệnh làm người và hãy trở thành những con người biết cầu nguyện, cầu nguyện ơn lành của Chúa xuống trên mọi người và chúng ta cùng chia sẽ sự bình an mà Chúa ban cho nhau.Và sau cùng câu hỏi chúng ta chết sẽ đi về đâu? Người đời cho cái chết là tận điểm của cuộc sống, là kết liễu của tất cả nhưng Chúa lại dạy: “Đó là khởi đầu, là cửa ngõ đưa tới sự sống lâu dài, vĩnh cữu vĩnh hằng nơi Thiên Đàng.”
Sống Đức Tin là một hành trình đi vào kế hoạch của Thiên Chúa. Sự yên lặng, bình an trong mỗi chúng ta lúc cầu nguyện để làm gì? Để không ngừng lắng nghe tiếng nói của Chúa trong từng giây phút, từng biến cố của cuộc sống, không việc gì xảy ra mà không có lý do cả. Thiên Chúa càng gần gũi ai thì Ngài càng thử thách người ấy. Thử thách là dấu hiệu để chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa nơi con người. Và chính niềm tin sẽ giúp chúng ta luôn Hy Vọng để phấn đấu vượt qua mọi thử thách và xứng đáng là con của Ngài, luôn làm sáng danh Cha trên cỏi đời này.
Cuốn sách này phần trọng tâm là những sự mầu nhiệm đã xảy ra trong đời tôi và gia đình tôi nhưng không sắp xếp theo thời gian thứ tự được vì câu chuyện sau đây tôi mới biết rõ tận tường vào năm 2007 sau chuyến về thăm Việt Nam.
Sau khi gia đình tôi định cư tại Mỹ cho tới năm 1997, chúng tôi có đưa mẹ chồng tôi trở về quê hương để dưỡng già và cho tới năm 2004, bà qua đời và chúng tôi có về nữa. Nhưng cả hai lần, chúng tôi không có ghé qua Cư Xá Thanh Bình, nơi chỗ ở cũ của gia đình Ba Mẹ tôi, vì tôi cứ nghĩ là cư xá này chắc họ đã giải tỏa hết rồi. Cư Xá Thanh Bình thuộc Cảnh Sát Đô Thành SàiGòn có khoảng trên 50 gia đình, nhà của ba mẹ tôi là căn số 13. Lúc tôi từ Đức Hòa trở lại Sảigòn về ở cư xá này khoảng năm 1961, có một gia đình bà con bên phía mẹ tôi gọi là cậu mợ Tám, ở căn số 7. Lần này về thăm quê hương năm 2007, chúng tôi có ghé qua thì thấy hoàn toàn thay đổi, không còn gọi là cư xá nữa vì nhà cửa đa số lên lầu cao 2,3 tầng, nhà ở san sát nhau, ngõ đi chật hẹp nên rất khó tìm ra. Tôi chột nhớ cái miếu nhỏ Ba tôi xây lúc trước nên hỏi thăm vài người chỗ cái miếu và quả thật tôi tìm được dễ dàng, tôi gặp lại người hàng xóm bên cạnh, căn số 14 hiện vẫn ở đây, nhà Cô cũng xây lại rất đẹp, riêng căn của ba mẹ tôi, cũng đã xây cao 3 tầng nhưng lại có hai số nhà, chia làm 2 hộ khác nhau. Điều làm tôi ngạc nhiên nhất là khi tìm được chỗ cái miếu thì không là 1, mà là 2 cái miếu xây y hệt nhau, tôi có hỏi Cô hàng xóm về việc này, Cô chỉ tay về căn nhà số 7 và nói gia đình Cậu Mợ tôi xây và hiện vẫn còn ở đây. Tôi mừng quá và cám ơn Cô. Khi đi đến căn nhà số 7 ngoài sức tưởng tượng của tôi, môt căn nhà cao 3 tầng, chiều ngang khoảng 5 mét, chiều dài khoảng 20 mét xây rất đẹp. Sau hơn 30 năm mới gặp lại nhau, tôi rất xúc động vì được biết Cậu tôi đã qua đời vài năm sau ngày đi học tập cải tạo về, Mợ tôi nay đã 85 tuổi nhưng vẫn còn khỏe và trí óc vẩn còn minh mẫn, sáng suốt và vẩn còn nhớ hết mọi chuyện. Tôi có hỏi về 2 cái miếu nên Mợ tôi kể lại như sau:
Cái miếu thứ nhất xây vào khoảng năm 1960 (sau khi tôi về ở cư xá thì tôi đã thấy có rồi, và hằng ngày Ba tôi hay ra miếu thay nước, cắm nhang, hằng năm tôi thấy có rước nhạc lễ về dâng bông cúng Bà, mọi người trong cư xá ai cũng biết miếu thờ Bà nên họ đến xem lễ rất đông, tôi không hay quan tâm gì hết cũng chẳng hỏi Ba Mẹ tôi về việc này nữa, chỉ biết là miếu của Ba tôi xây để thờ bà.), một đêm Mợ tôi nằm mộng thấy một Bà (Thiên Thần) từ trên không bay xuống và liên tiếp 5 đêm, Mợ đều thấy như vậy, tức là 5 Bà bay xuống cư xá này, Mợ tôi vừa mừng vừa lo sợ vì không biết chuyện gì sẽ xẩy ra nên kể lại cho Ba Mẹ tôi nghe về điềm mộng này. Và cả 2 gia đình đều đồng ý là nên xây 1 cái miếu nhỏ ở khoảng đất trống cách nhà Ba Mẹ tôi chừng 15 mét để cầu nguyện và gọi là miếu thờ 5 Bà. Mợ tôi còn nhắc lại là 1968, tết Mậu Thân, Việt Công đã bắn xối xả vào thành Cảnh Sát Dã Chiến và cư xá Thanh Bình khiến nhiều người chết, ngày hôm ấy tôi cũng có mặt tại nhà Ba Mẹ tôi, tôi về nhà chúc Tết, tôi còn nhớ thật là kinh hoàng vì họ bắn vào tới tấp, tôi ôm đưá em họ (từ Đức Hòa xuống thăm) và 2 chị em núp ở sau tủ quần aó để tránh đạn. Cư xá này thật là may mắn vì không có ai chết, chỉ bị thương thôi. Thật là một sự mầu nhiệm không giải thích được.
Mợ tôi lại kể tiếp cái miếu thứ nhì được xây trước năm 1975 chính Cậu Mợ tôi xây, cũng hình dạng và kích thước giống y cái miếu đầu tiên. Một đêm Mợ tôi ngủ, không phải thấy mà lại nghe bên tai hai câu:
“NON TÂY ĐẠO TRỌNG HOẢ LẦU SƠN
THANH BÌNH DI TÍCH HÀNH ĐẠO PHÁP”
Mợ tôi không để ý và ngủ tiếp, Mợ lại nghe nữa, cả hai ba lần như vậy, Mợ ngồi dậy và viết hai câu xuống thì không còn nghe gọi nữa. Mợ hoảng sợ và cũng như lần trước, Mợ kể lại cho Cậu nghe và cả hai vợ chồng đọc đi đọc lại hai câu trên nhưng không hiểu ý nghĩa như thế nào, cũng không biết giải rõ điềm mộng, Mợ nói chỉ thấy chữ “ HỎA LẦU SƠN” cứ nghĩ là Ông hỏa lò (tức Ông Táo), nên xây miếu thờ Ông Táo và dán 2 câu trên dọc theo 2 bên cạnh miếu (thời gian này sau khi ba tôi mất 1971, mẹ và em tôi đã dọn về chung cư Nguyễn Văn Thoại nên chúng tôi hoàn toàn không biết chuyện này). Mợ tôi nói tiếp: Ông Trời đã cứu cư xá này lần thứ nhì và cứu dân Việt Nam qua hết nạn tai, nhất là hằng triệu người vượt biên ra đi sau năm 75, Cậu Mợ tôi có 6 người con và cậu trai lớn đã được định cư tại Mỹ. Cậu tôi sau khi đi học tập cải tạo gần 10 năm về có sơn lại hai hàng chữ nên trông còn rõ nét, và gia đình quyết định ở lại để giữ gìn 2 cái miếu, như lời câu thứ hai, mãi mãi vẫn còn di tích tại cư xá Thanh Bình này. Đó là niềm tin vững mạnh về Đấng Tạo Hóa, sống đức tin là một hành trình đi vào kế hoạch của Ngài và Mợ tôi đã đạt được nguyện vọng, hiện nay gia đình con cháu gồm 18 người đều sống tại đây.
Sau khi tôi nghe xong câu chuyện về 2 cái miếu, tôi chợt nhớ lại câu chuyện của ba tôi cũng tại cư xá này. Mẹ tôi kể lại, vào khoảng năm 1970, một đêm ba tôi thức cả đêm và viết ra trên một xấp giấy mà chữ viết không có phải chữ Quốc Ngữ, không phải chữ Hán, chữ Nôm, mà là chữ có hình dạng giống như chữ của nước Cam Bốt hay chữ Ấn Độ, mãi đến sáng ông viết xong rồi mà ông không có đọc được, ông đem đến các Chùa để hỏi các vị sư nhưng cũng không có ai đọc đuợc, và trước khi mất ông có trao lại cho tôi và có căn dặn, hãy gìn giữ lấy và biết đâu sau này sẽ có người đọc được. Đến năm 1982, vì đi qua Mỹ viện đoàn tụ gia đình, họ xét rất kỹ, từng ly từng tí, từng tấm hình, từng cuốn sách trước khi lên máy bay, nên tôi cầu nguyện ba tôi và đốt cuốn tập sách đi vì chữ nghĩa đọc không hiểu. Vì tôi sợ họ sẽ nghỉ tôi viết mật mã thì khổ lắm, ngày nay mỗi lần nhớ lại tôi buồn và rất tiếc vì không giữ lại được cuốn tập sách như lời căn dặn của ba tôi.
Sau khi từ giã gia đình của Mợ, đầu óc tôi cứ nghĩ lẩn quẩn về 2 câu trên, tôi lại vào thăm Mợ và viếng qua 2 cái miếu lần nữa, tôi ghi chép lại 2 hàng chữ mà cũng không hiểu gì hết, mãi đến trước khi về lại nước Mỹ, tôi mới chợt nhớ ra câu chuyện của ông MOSES.
Ông là người đã giải thoát người Do Thái thời làm nô lệ cho vua Ai Cập. Ông MOSES lên núi và thấy một bụi cây khô phát hỏa và nghe tiếng nói của God dặn dò Ông làm cách nào để cứu dân Do Thái, và nhờ thần lực của God trao cho Ông với cây gậy, ông đã rẽ nước biển cả làm đôi để cứu dân của Ông thoát nạn đến bờ bình an. Tôi mừng quá vì tôi đã giải rõ điềm mộng và hiểu đuợc ý nghĩa của câu 1 và đúng như lời của Mợ tôi nói. Vì hiện nay đã có hơn 3 triệu người Việt Nam đã được định cư trên 45 nước toàn thế giới, chúng tôi những người Việt sống tha hương luôn ghi nhớ và cám ơn những tấm lòng yêu thương chan chứa tình người của các quốc gia trên khấp thế giới.
Thật không thể diễn tả, diễn đạt cho hết những mầu nhiệm của Đức Chúa Trời và là những ân phúc mà Ngài đã ban cho người Việt chúng tôi. Chỉ có sự bình an trong tâm hồn mới lắng nghe được tiếng nói của Chúa trong từng giây phút, trong từng biến cố của cuộc sống mà thôi, đây cũng là SỰ MẦU NHIỆM HIỆP THÔNG giữa Thiên Chúa và chúng ta qua ƠN CỨU ĐỘ để giúp chúng ta luôn giữ vững niềm tin như lời Thánh St. FRANCIS đã cầu nguyện trong Kinh Hòa Bình: “ Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem tha thứ vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, và đem chân lý vào chốn lỗi lẩm.”
Đó là xong phần hồi ký của tôi và sau đây là phần kinh nghiệm của tôi trước và sau 1993. Nếu nói đến những kinh nghiệm về cuộc đời, cuộc sống thì tôi đã trải qua hơn 60 năm, tôi đã thu thập và học hỏi được thật nhiều, có khi phải vấp ngã nhiều lần mới đứng vững được, nhưng trong cuốn sách này tôi chỉ đề cập đến phần tâm linh. Trước năm 1993, tôi chỉ biết có tôi thôi, trong cuộc sống hằng ngày tôi bận rộn từ sáng đến tối, năm này qua năm khác, luôn quay cuồng trong cuộc sống vật chất để thoả mãn những đòi hỏi của cái tôi quá lớn, tranh giành nhau về địa vị cao thấp, chà đạp lên nhau vì quyền lợi hơn thua. Ba Mẹ tôi là đạo Phật, nhưng có bao giờ tôi thấy ông bà đi Chùa đâu? Trong nhà thì có bàn thờ Phật và bàn thờ Tổ Tiên, theo tôi nghĩ chắc là đạo thờ ông bà. Lòng tin và đức tin ai cũng có hết nhưng có được hướng dẫn dạy dỗ cho đúng đường hay không? Đó là việc quan trọng và cần được quan tâm nhất, tôi sẽ trình bày rõ hơn ở phần rao giãng tin mừng. Còn về đạo Thiên Chúa thì gia đình tôi hoàn toàn không biết gì cả, cũng chẳng màn tìm hiểu đến. Cứ mỗi năm đến mùa Giáng Sinh và tết Dương Lịch, tất cả mọi người không riêng chỉ giáo dân đều biết ngày ấy, nhà có Đạo thì trang hoàng cây Giáng Sinh, người không có đạo thì cũng theo dòng người đi xem lễ vậy thôi. Việc truyền gìáo Thiên Chúa sang nước tôi qua các giáo sĩ người Pháp đã từ bao nhiêu thế kỷ này, biết bao Thánh Tử vì đạo ở Việt Nam mà cho đến hôm nay bằng chứng là cha mẹ tôi cũng không biết Chúa là ai? Đạo Thiên Chúa dạy dỗ như thế nào, nhưng có 1 điều là Mẹ tôi biết chắc chắn tôi là con của Thiên Chúa qua điềm các vị Thiên Thần báo mộng. Vì vậy việc rao giảng tin mừng về Chúa Cứu Thế sẽ còn tiếp tục qua nhiều thế hệ nối tiếp sau này tại quê hương tôi.
Và kinh nghiệm về phần tâm linh sau ngày tôi được mở mắt đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống của tôi. Cái ta, cái ngã, tự tôn, tự đại của tôi đã hoàn toàn biến mất, thay vào đó là sự hoà đồng, hòa hợp với nhau cùng liên hệ và chia sẽ trong cùng một lực sống, lực sống này không phải là một lực sống vô vi, mà là Đức Chúa Trời, Đấng Ánh Sáng của sự sống đang ở trong mỗi chúng ta và chúng ta chính là hình ảnh của Ngài, như lời Thánh Kinh:
“Con Ngưòi được tạo dựng trong hình ảnh của Thiên Chúa”
(Sáng thế 1: 26 – 27)
Việc rao giảng Tin Mừng thật chính là do Giáo Hội, qua các vị Tông Đồ, các vị Thánh, toàn thể các vị chủ chăn như Đức Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh Mục, đã dâng hiến đời mình để làm vinh danh Chúa Cứu Thế, truyền giáo để mở rộng nưóc Trời nơi trần gian.
Riêng tôi chỉ là 1 giáo dân, nhưng được nhiều hồng ân của Chúa ban cho và đã thấy Nước Trời ngay tại đây, như lời của Chúa đã nói:
“ Ta là SỰ SỐNG LẠI và là SỰ SỐNG. Ai tin ta thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Hể ai sống mà tin ta thì sẽ không chết bao giờ.” (Ga 11, 25)
Lời rao giảng Tin Mừng Chúa Phục Sinh, ngày hôm nay là một sự kết hợp những khác biệt lại với nhau, chứ không phải để phân cách, chia rẽ, cái này hổ trợ cái kia, liên hệ làm một mối, cùng quay về một nguồn cội, các con cùng một Cha là Đức Chúa Trời, là ánh sáng của sự sống, là ánh sáng của tình yêu thương được thể hiện qua mọi tầng lớp, mọi giai cấp trong xã hội, chúng ta khỏi cần tìm Chúa Phục Sinh chi cho xa, mà Chúa là hình ảnh của nhân loại đó thôi, thấy được như vậy mới thấy được Nước Trời nơi đây.
Chúa đã nói:
“Anh em đã được tái sinh, không phải do hạt giống mục nát, mà do hạt giống BẤT DIỆT, nhờ lời Thiên Chúa hằng sống và tồn tại mãi mãi.” (1 Pr 1, 23)
Sự lành thánh nơi Đạo Thiên Chúa là không phải loại trừ mà là kết hợp, không phân biệt, không phán xét nhưng yêu thương cứu chữa. Trong thế giới bao la đầy dấu chỉ sự hiện diện của Ngài, chúng ta luôn gặp Ngài qua nội tâm thanh thản bình an. Sự bình an mà Chúa cứu thế ba cho như lời Ngài đã nói:
“Thầy để lại bình an cho các con,
Thầy ban cho các con bình an của Thầy.”
(GA, 14, 27)
Lời nói này như là một dấu ấn trong trái tim của tôi và tôi luôn thực hành lời căn dặn của Ngài:
“Hãy kính mến Chúa và Hãy yêu thương tha nhân như chính mình.”
(Mat-thêu 22:37-40)
Lạy Cha ở trên Trời, con được kêu gọi để lãnh phần gia nghiệp của Cha, được dự phần vào hạnh phúc vĩnh cữu và nơi Cha mãi là tình yêu miên viễn bất diệt. Tôi muốn nói đến ơn kêu gọi để lãnh phần gia nghiệp của Cha trên Trời là theo lời Cha dạy:
“Cha đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ.”
Chúng ta sẽ tìm thấy Hạnh Phúc trong phục vụ và yêu thương, trong hy sinh và tha thứ và nhất là Hạnh Phúc vĩnh cữu trên Thiên Đàng, từ đó chúng ta cảm nhận cuộc đời tầm thường ngay hiện tại sẽ có một ý nghĩa phi thường. Chúng ta luôn vâng phục lời Chúa Giêsu dạy:
“Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ thương yêu kẻ ấy, chúng ta sẽ đến và ở trong kẻ ấy. Ai không yêu mến Thầy thì không tuân giữ lời Thầy.” (Gioan 14:23-24)
Câu Mến Chúa Yêu Người là tâm niệm của giáo dân và Chúa cũng đã nói:
“Ta đến để anh em được sống và sống sung mãn vì ý của Cha ta là hể ai Thấy và Tin người con sẽ được sự sống đời đời và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết.”
(Gioan 10:10; 6:40)
Về phần rao giảng Tin Mừng trong cuốn sách này, tôi thu thập, ghi chép lại nguyên văn của các vị Tông Đồ, các bậc Thánh Nhân, cả giáo dân và tha nhân. Có những việc mầu nhiệm và phép lạ như cô bé Akiane, là người đã gặp Chúa và vẽ cảnh trên Thiên Đàng, cũng là nhân chứng, tức là phô bày cuộc toàn thắng của Chúa Cứu Thế trên tội lỗi, bịnh tật và cả cái chết. Đối với riêng tôi, ai cũng là con của Ngài, những lời nói hay việc làm phát xuất ra từ trái tim biết yêu thương và phục vụ thì không phải là tiếng nói của Ngài thì là ai đây? Nên tôi rất trân trọng và lắng nghe tất cả, viết ra, ghi chép lại và xin được phổ biến rộng rãi. Nước Trời được tạo dựng tại thế gian không dành cho chỉ riêng ai mà cho toàn thể nhân loại. Chúa Cứu Thế trở nên nguồn mạch của sự sống trên quả đất này và là sự sống lại cho nhân loại. Chúa nói:
“Tôi là Ánh Sáng Thế Gian. Ai theo tôi sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được sự sáng, đem lại sự sống.” (Gioan 8:12)
Về nguồn gốc, chúng ta được biết Cha ta ở trên Trời và như lời hứa khi xưa Chúa đã nói:
“Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với ta.” (Ga 12,32)
Sống đức tin là một bí ẩn về ơn sủng của Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi để nhập cuộc, sự hiện hữu của chúng ta trên đời này là một tin vui cho toàn thế giới. Ai cũng có ơn gọi của Chúa, gọi sống mãnh liệt, sống hướng thượng mỗi chúng ta ví như mỗi tế bào trong thân thể của vũ trụ bao la, cái này có thì cái kia có không tách rời được, hoặc biến mất mà phải liên kết hòa hợp thành một mối, một là tất cả và tất cả là một. Đức Chúa Trời tạo nên chúng ta, cứu chuộc chúng ta và sẽ liên tục ban ơn cho chúng ta. Chúng ta luôn giữ vững niền tin yêu và phó thác vào vòng tay yêu thương chủ Chúa Cứu Thế. Đức tin không thể là một quyết định chỉ một lần, mà phải là một quyềt định liên tục, một tiến trình kéo dài suốt cả cuộc đời. Sự bình an mà Ngài đã ban cho mỗi chúng ta giúp chúng ta luôn bình tĩnh, sáng suốt, vượt qua mọi trở ngại, mọi khó khăn trong cuộc sống.
Và trước khi vào phần rao giảng tin mừng Chúa Phục Sinh, tôi xin được nói về Đức mẹ MARIA với trọn niềm tin yêu và kính phục của tôi, vì nếu không có Mẹ thì không có Chúa Giêsu của chúng ta.
Nhắc lại khoảng thời gian Chúa Giêsu còn sống và đến ngày Chúa chịu chết trên cây thánh giá. Đức Mẹ luôn theo dõi bước chân đi của con mình và chỉ âm thầm vâng phục Đức Chúa Trời vì Đức Mẹ đã biết trước được con đường của Chúa Cứu Thế phải đi qua là gánh tất cả tội lỗi của nhân loại và Vì Yêu mà chịu chết và cũng Vì Yêu mà sống lại. Một tình yêu hiến dâng để chiến thắng sự chết.
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nổi đã ban con một, để ai tin vào con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (GA 3,16)
Đức Mẹ chỉ nói vài lời khi dự bữa tiệc cưới CANA, mà Mẹ và Chúa cùng tham dự, tiệc chưa tàn mà rượu mừng đã cạn, và chỉ có Mẹ là người biết con mình có nhiều phép lạ, quyền năng từ Chúa Thánh Thần nên Mẹ hỏi ý kiến của Chúa Giêsu, Ngài vâng ý và bảo người phụ giúp tiệc cưới đem vài thùng nước lã vào, họ không tin nên còn chần chừ do dự và Mẹ nói:
“NGƯỜI BẢO SAO THÌ LÀM Y NHƯ VẬY.”
Và sau đó Chúa đã làm phép lạ, nước lã trong thùng không mùi vị, không màu sắc đã biến thành rượu mừng cho bữa tiệc cưới được hoàn tất mỹ mãn.
Tiệc cưới là bàn tiệc tình yêu của Thiên Chúa, là sự truyền giống nối tiếp sự sống trên quả đất này. Nước Trời tại đây đã có từ hơn 20 thế kỷ nay, khởi đầu từ khi Đức Mẹ Maria được Thiên Thần báo mộng và Chúa Giêsu tức là con của Đức Chúa Trời, một sự hoà hợp giữa Trời và Đất, đó chính là tình yêu của Thiên Chúa. Đất Trời như một thửa vườn hạnh phúc (địa đàng) được trao ban làm quà tặng cho con người được sống và sống sung mãn, sống vĩnh cữu, nhưng rất tiếc có được bao nhiêu người thấy sự thật mà đón nhận và hưởng trọn niềm vui hay vẫn còn mãi chạy theo những khát vọng xa vời, hoang phí đi cả một đời người.
Trời cũng là của Thiên Chúa, Đất cũng là Thiên Chúa, hoàn vũ với muôn loài chính là Chúa dựng nên, Chúa không yêu thương nhân loại thì không tạo dựng vũ trụ này và cho con người được làm bá chủ muôn loài, nhưng đa số chúng ta luôn yếu đuối và bất toàn, nên Chúa Cứu Thế đã đến, con một của Thiên Chúa đến để cứu chuộc tất cả tội lỗi của nhân loại, Ngài đã dạy dỗ hướng dẫn chúng ta tìm thấy sự thật và cùng quay về nguồn cội trên Thiên Đàng. Thiên Chúa đã tạo dựng nên có sự cứu độ. Căn bịnh hiểm nghèo nhất của nhân loại chính là sự thiếu vắng Thiên Chúa trong tâm hồn chúng ta. Con thì quên Cha, từ bỏ Cha, nhưng Cha thì luôn thương yêu và tha thứ các con, như dòng thác nước từ trên cao mãi tuôn chảy xuống không ngừng nghỉ. Chúng ta đón nhận Ngài qua từng hơi thở siêu nhiên, thần khí của Ngài đang thổi vào và hòa quyện trong thân thể của chúng ta, đó là cả một sự mầu nhiệm mà người giáo dân được đón nhận và cảm thấy bình an, hạnh phúc vì Chúa luôn ở trong chúng ta.
Nói về Nước Trời tại thế gian, trong thánh kinh Chúa Giêsu có diễn tả câu chuyện như sau: “Nước Trời cũng giống như chuyện một ông Vua kia mở tiệc cưới cho con mình, nhà vua sai đầy tớ đi và dặn dò:
“Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn ta ĐÃ DỌN XONG, MỌI SỰ ĐÃ SẴN, mời quí vị đến dự tiệc cưới!” (Mt 22: 2,4)
Vậy mà nhiều người không đến dự tiệc được vì quá bận rộn không có thì giờ, hoặc đi chơi xa….” Nước Trờì ngay trước mắt chúng ta, mở mắt ra mà với con mắt đức tin, con mắt với ánh sang trí tuệ chiếu soi thì sẽ thấy được sự thật, Nước Trời hiện ra rõ ràng tại đây, không phải là huyển hóa, không phải là ảo mộng và Đức Chúa Giêsu mời chúng ta cùng tham dự, cùng nhập cuộc vào, qua chúng ta hình ảnh của Ngài đang tỏa lực sáng khắp nơi từ trên Trời cả dưới quả đất, thật nhiệm mầu và vinh quang của Thiên Chúa. Thiên Đàng là bàn tiệc tình yêu, Thiên Chúa là tình yêu, Chúa Giêsu là người gieo giống, nếu Chúa Cứu Thế không xuống thế gian làm người như chúng ta thì tình yêu không xuyên suốt và trọn vẹn để hoàn thành công cuộc cứu độ. Chúa là chàng rể, nhân loại là cô dâu và chàng rể đã gặp cô dâu. Chàng rể vì yêu cô dâu mà đến và cũng vì yêu cô dâu mà sống lại, một tình yêu cao cả và bất diệt. Vì yêu Chúa Giêsu đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, Ngài lại nói như lời hứa hẹn:
“Vì hể ai làm theo ý Cha Ta trên Trời, thì nguời ấy là anh em, chị em và là Mẹ ta vậy.” (Mt 12:50)
thật rõ ràng, không phải là mơ hồ hay huyển hoặc mà là có thật, và với đức tin vững mạnh, dù đã sanh sau hơn 20 thế kỷ, chúng ta không được thấy mặt Chúa, nhưng Chúa nói:
“Phúc cho ai không thấy mà tin.” (Ga 20,29)
Qua sự phục sinh của Ngài, Chúa Cứu Thế đã thắp lên nguồn ánh sáng của sự sống và sự sống lại trong mỗi chúng ta. Ngài biến đau thương của sự chết, ngày cuối cùng của một kiếp người thành ngày thứ nhất trong đời sống trong Thiên Đàng và Ngài đang hiện diện giữa chúng ta đây, nhưng mà chúng ta cũng chẳng nhận ra được Ngài. Bàn tiệc tình yêu mà Ngài mời gọi, chúng ta không nên đắn đo, do dự nữa mà cùng nhập tiệc chung vui, ăn mặc với trang phục chỉnh tề để chúc mừng cô dâu chú rể muôn đời hạnh phúc, thừa hưởng sản nghiệp của Cha Ông là cả vũ trụ này. Hình ảnh Đức Mẹ lên trời được Đức Chúa Trời ban thưởng:
“Một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên 12 ngôi sao.”
(kh 12:1)
Và cho đến hôm nay, các cô dâu vẫn mặc áo đầm dài màu trắng, đầu đội vương niệm hay vòng hoa, đó là hình ảnh Cô Dâu Đức Mẹ MARIA. Đạo Thiên Chúa có 7 Bí Tích, với Bí Tích Thánh Thể hay Mình Thánh Chúa, lời Chúa nói với các vị Tông Đồ;
“Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức KiTô sao?”
(1cr 6,15)
“Bởi vì chỉ có một tấm bánh và tất cả chúng ta chia sẽ cùng một tấm bánh ấy nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể.”
(1cr 10,17)
Chàng rể đã gặp cô dâu và khi Chúa đến Nước Trời đã đến, tất cả cùng qui về một nguồn cội là Cha trên trời như lời cầu nguyện trong Kinh Tin Kính:
“Tôi tin kính một Thiên Chúa Giêsu KiTô, con một Thiên Chúa, sinh bởi Chúa Cha từ trước muôn đời. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mả không phải tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành….”
Chúng ta sống đức tin một cách sáng tạo và trong sáng, luôn có lý trí để suy nghiệm và soi xét như ánh sáng ngọn đèn phá tan bóng tối, soi đường cho chúng ta cùng đến với Ngài. Nước Trời luôn phát triển một cách huyền diệu nhiệm mầu và Chúa đã sống lại trong mỗi chúng ta. Ngài đối thoại với từng người trong chiều sâu thẩm và lắng động bình an của tâm hồn các con Ngài. Sau khi Chúa Cứu Thế lên trời:
“Sự việc xẩy ra là đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời.” (Lc 24:51)
Và Chúa Thánh Thần xuống:
“Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần và bắt đầu nói tiếng khác nhau tùy theo Thánh Thần ban cho họ.” (cv 2:4)
Nước Trời đã hiện ra, ba ngôi Thiên Chúa đã bày tỏ rõ ràng như trong Kinh Sáng Danh:
“Sáng danh Đức Chúa Cha, và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần đã có trước vô cùng, và bây giờ và hằng có, và đời đời chẳng cùng. AMEN.”
Thật Mầu Nhiệm của ba ngôi Thiên Chúa.
Sau khi Đức Mẹ lên trời, Mẹ đã hiện ra tại LOURDES (nước Pháp) năm 1858. Mẹ hiện ra tại FATIMA năm 1917, thuộc nước Bồ Đào Nha (Portugal). Và riêng tại Việt Nam, Đức Mẹ hiện ra 1798 tại LAVANG thuộc tỉnh Quảng Trị cách thành phố Huế 60 km về phía Bắc.
Thời vua Cảnh Thịnh, nhà Tây Sơn ra sắc chỉ cấm đạo Thiên Chúa, để tránh những cuộc tàn sát đẩm máu, một số giáo dân vùng này chạy trốn vào rừng, tập trung cầu nguyện và lần chuổi hạt kêu xin Đức Mẹ cứu giúp. Một ngày kia, lúc đang cầu nguyện thì Đức Mẹ hiện ra rực rỡ, tươi đẹp vô cùng. Mẹ phán rằng:
“Các con hãy tin tưởng, hãy can đảm, cam lòng chịu khổ. Từ nay những ai chạy đến cầu khẩn với Mẹ tại chốn này, Mẹ sẽ nhận lời ban ơn theo ý nguyện.”
Ngày nay Thánh Địa LAVANG. hằng năm có hàng trăm ngàn người đến đây hành hương. Vào năm 1998, để kỷ niệm 200 năm Đức Mẹ hiện ra, Đức Cố Giáo Hoàng Phaolô II đã gởi tặng cho Thánh Địa LaVang một CHÉN THÁNH.
Và mới đây vào ngày 13 tháng 6, năm 2008 Ngài PIERTRO PAROLIN Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao Tòa Thánh đại diện Đức Thánh Cha BENEDICTO XVI đến dự lễ và Ngài đang đọc thông điệp của Đức Thánh Cha gửi giáo dân Việt Nam vào khoảng 10 giờ sáng thì Vầng Hào Quang (Rainbow) xuất hiện trên không nơi 2000 giáo dân đang cầu nguyện, mọi người dự lễ đều thấy, vòng tròn hào quang đường kính khoảng 20 mét, theo thứ tự màu đỏ, vàng, trắng…., từ giữa hào quang sáng chói có một dãi mây trắng như tuyết, như dãi áo choàng Đức Mẹ, nhẹ nhàng phất phơ trước gió. Ngài phải dừng lại, ngưng đọc vài phút cho mọi người cầu nguyện và chiêm ngưỡng. Đây rõ ràng là một sự kỳ diệu nhiệm mầu. Lần này Đức Thánh Cha tặng một Hào Quang (vòng tròn màu sắc) để đựng Mình Thánh Chúa cho giáo dân Việt Nam.
Vòng Hào Quang Đức Thánh Cha tặng và vòng Hào Quang trên trời hiện ra cùng một lúc, cùng một địa điểm nơi Thánh Địa LaVang, thật là một sự phối hợp huyền diệu của Thiên Chúa chúng ta không thể dùng ngôn ngữ để diễn tả mà chỉ có sự cảm nhận sâu xa trong tâm hồn của chúng ta về quyền năng của Đức Chúa Trời.
Ngôi đền thánh tại LaVang đầu tiên vào năm 1820-1840, Đức Thánh Cha Gioan XXIII nâng đền Thánh Đức Mẹ LaVang lên Bậc Tiểu Vương Cung Thánh Đường.
Sau phần Đức Mẹ MARIA, tôi xin được nối tíếp việc rao giảng Tin Mừng của các vị Thánh mà Thánh Phaolô là người tôi ngưỡng mộ và khâm phục nhất. Thánh Phaolô (Paul) là người Pharisiêu, lúc đầu ông không tin Chúa Cứu Thế và thậm chí còn tìm bắt, bách hại những người theo đạo Chúa nữa. Một hôm trên đường đi, khoảng đó đã gần tới ĐAMÁT ngay gần trước cổng mở vào thành, chợt ông trông thấy có ánh sáng từ trên Trời bủa xuống bao kín chung quanh ông, ông đang cưởi ngựa, con ngựa hoảng sợ hất ông té ngã xuống đất và ông nghe có tiếng bảo rằng:
“Phaolô, Phaolô, sao nhà ngươi bách hại ta hoài?”
Ông vội hỏi: “Ngài là ai?”. Tiếng nói trả lời: “Ta là Giêsu…” (TĐCV 9:3-5)
Ông bừng tỉnh và thốt lên với tâm trạng quá sửng sốt, quá ngạc nhiên:
“Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà là Đức Giêsu đang sống trong tôi.” (GL 2,20)
Từ đó cuộc đời ông đã thay đổi hoàn toàn, ông trở nên một vị Tông Đồ mới của Chúa Giêsu. Ông nói:
“Thật vậy, đối với tôi việc rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào mà đó là sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!”
(1cr 9,16)
Và “Nếu Đức Giêsu không phục sinh, thì niềm tin và lời rao giảng của chúng ta vô ích.”
(1cor 15, 14)
Để hiểu rõ tại sao gọi là Đấng Cứu Thế, Ngài giảng giãi rõ tại sao SỰ CHẾT và SỰ PHỤC SINH của Chúa đã cứu thoát loài ngưởi. Ngài viết:
“Vì tội của một người mà án phạt được tuyên bố cho mọi người thế nào? Thì cũng nhờ công phúc của một người, ơn công chính ban sự sống, cũng được ban phát cho mọi người như thế!”
Thư gửi tín hửu Roma 5:18
“Ngoài Chúa Giêsu ra, không ai đem lại ơn cứu độ, vì dưới gầm trời này không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh Người mà được cứu độ.” (cv 4:12)
“Chính Đức Giêsu là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa.” (1Ga, 2,5)
Đề cập đến việc Cứu Độ. Ngài cũng nhắc qua Thánh Kinh Cựu Ước, tổ phụ ABRAHAM, người lữ hành đi tìm miền Đất Hứa, rời bỏ quê cha đất tổ, để bước theo tiếng gọi của Thiên Chúa. Đó là cuộc hành trình Đức Tin. Ngài viết:
“Thiên Chúa đã nói với các tổ phụ của chúng ta nhiều lần và nhiều cách qua các tiên tri, nhưng trong những ngày cuối cùng này, Ngài đã nói với chúng ta qua Con của Ngài.”
Chúa Cứu Thế đã không chỉ đồng hành mà còn là:
“Mục Tử nhân lành, hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Gioan 10:11)
Thánh Phaolô cũng bằng chính kinh nghiệm cuộc đời của mình đã chia sẽ rằng:
“Sám hối là làm hòa lại với Thiên Chúa và Tin Mừng là được Thiên Chúa cứu độ.”
Cảm thông và kết hợp với Thiên Chúa là một tương giao rung động con tim, một sự sống lại của Chúa trong mỗi chúng ta, sự bình an Chúa ban cho là một ân phúc ai cũng có cả bằng lời nói và hành động phải luôn tỉnh thức, chan hòa tình yêu thương và phục vụ đồng loại chính là khởi đầu cuộc sống hạnh phúc ở Nước Trời ngay tại trần gian này.
Và Thánh Phaolô lại nói:
“Ai gieo giống nào thì gặt giống ấy. Ai gieo trong xác thịt thì sẻ gặt lấy sự hư nát của xát thịt, ai gieo trong Thánh Thần thì sẽ gặt được sự sống đời đời của Thánh Thần.”
(Ga-Lat 6:7-8)
Ngài luôn đặt niềm tin yêu và phó thác vào Chúa Cứu Thế:
“Như chúng ta đã mang hình ảnh của Người thuộc về đất như thế nào, thì chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh của Ngài đến từ Trời như vậy.” (1 CORIN-tô 15:45,47,49)
Và ông gọi ai cũng là Thánh cả, không còn cái nhìn phân biệt trong giáo hữu anh em.
“Nào anh em chẳng biết rằng, anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần của Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1cr3, 16)
Thánh Phaolô đã có lúc vui mừng và thốt lên:
“Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Anh em đừng lo lắng gì cả, nhưng mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện.” (PL 4,4-6)
“Hãy tạ ơn Chúa Cứu Thế trong mọi hoàn cảnh, dù đó là điều tốt hay là xấu, may mắn hay rủi ro, thành công hay thất bại…, đều nằm trong chương trình tốt nhất của Ngài dành cho ta.”
Cho nên người tín hữu chân chính khi cầu nguyện Chúa, họ sẽ luôn ca ngợi Chúa trong mọi lúc vui hay buồn và cảm tạ Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Qua phần rao giảng Tin Mừng cuả Thánh Phaolô, trong tập sách nhỏ, tôi chỉ ghi tóm lược và ý chánh mà với cả kinh nghiệm cuộc đời của Ngài, Ngài muốn nhắn nhủ với chúng ta là Hãy Sám Hối và tin vào Tin Mừng như lời rao giảng đầu tiên của Chúa Cứu Thế:
“Thời kỳ đã mãn, nước Thiên Chúa đã đến gần, Anh Em hãy SÁM HỐI VÀ TIN VÀO TIN MỪNG.” (MC 1,15)
Sám Hối và tin vào Tin Mừng có sức mạnh giải thoát. Sám Hối là khởi đầu của sự nên Thánh.
“Khi một người có tội, ăn năn thống hối thì ở trên Trời có sự vui mừng hơn 99 người khả kính không cần ăn năn thống hối.” (Luca 15:7)
Và: “Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta.” (1Ga 1,9)
Là con người, ai lại không có lỗi lầm và thường hay yếu đuối, bất toàn trước những cám dỗ, những cậm bẩy của thế gian và với Bí Tích giãi tội là Lễ Xưng Tội là một công trình vĩ đại nhất mà Chúa Cứu Thế đã thực hiện cho nhân loại trong thình yêu Đức Chúa Cha và sự hiệp thông của Chúa Thánh Thần. Chúa Cứu Thế là người Cha luôn yêu thương và tha thứ, một người Cha muốn được con cái yêu thương hơn là sợ hãi, các con luôn mời gọi nhìn ra ánh sáng với cả niềm hy vọng, tin yêu và phó thác như Thánh Phaolô đã nói:
“Chính khi tôi yếu đuối là lúc tôi mạnh nhất.” Khi cuộc đời của Ngài gặp nhiều khó khăn, nhiều phong ba bảo táp, Ngài phó thác vào tay Chúa thì sẽ nâng đở Ngài đứng dậy như Chúa đã từng nâng đở Ngài trên đường ĐAMÁT vậy. Chúa không bao giờ bỏ rơi ai cả.
Và Thánh Gioan nói: “ Thiên Chúa là tình yêu và ai sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong họ.”
Cuộc đời này, nơi đây chỉ là cuộc hành trình tiến về nước Trời tại Thiên Đàng. Cuộc đời này là sự chuẩn bị cho đời sau, đời sống viên mãn và vĩnh cửu. Nếu bạn liên kết với Chúa Cứu Thế hằng ngày thì không sợ chết vì chỉ là sự đột biến vào cõi đời đời.
Sách Khải Huyền Viết: “Giờ phút cuối cùng của bạn sẽ đến nhưng nó không phải là kết thúc cuối cùng của bạn, nó là ngày Sinh Nhật của bạn, để đi vào cỏi Đời Đời vĩnh hằng trên Thiên Đàng.”
“Chúa là Đấng trung gian, là nhịp cầu dẫn đưa chúng ta lên Trời hợp thông với Thiên Chúa.”
(coi: 1Tim 2:5 v Isasia 43:10-11;44:6)
“Sự thật sẽ giải thoát anh em.” Và “Hãy tích trử cho mình những kho tàng trên Trời, nơi mối mọt không làm hư nát và kẻ trộm không khoét vách lấy đi.” (Mt 6,20)
Và Thánh Phaolô nói: “Mỗi anh chị em hãy thống hối và chịu phép rửa tội, nhân danh Chúa Giêsu Kitô để được tha tội. Sau đó anh em sẽ được lãnh nhận ân sủng của Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần.” (Tông Đồ Công Vụ 2:38)
“Kẻ ấy là con người mới, con người cũ đã biến đi và mọi sự đã đổi mới rồi.” (2 Cor 5:17)
Những lời nói trên của Thánh Phaolô thật đúng như cuộc đời của ông, ông đã thay đổi hoàn toàn thành một con người mới, và những con chiên đi lạc đàn giống như tôi, chắc chắn sẽ được Chúa Cứu Thế tìm ra và tất cả sẽ cùng quay về với Chúa như Chúa đã nói:
“Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi.” (Ga 10,27)
Và: “Chúng ta biết rằng, Thiên Chúa làm cho mọi sự đều ăn khớp với nhau, sinh ích cho những ai yêu mến Chúa, tức là những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định.”
(ROMA 8:28)
Chúa Cứu Thế luôn tôn trọng sự tự do của mỗi người để chọn lựa, tiếp nhận hoặc từ chối Chúa là Ánh Sáng Thế Gian.
“Chúa Giêsu là ánh sáng.” (Gioan 8:12)
Ai đón nhận thi được cứu độ, và chỉ có sự kết hợp với Thiên Chúa mới được cứu chuộc vì tinh thần Thiên Chúa Giáo, nghĩa là yêu thương và phục vụ để kiến tạo và tái tạo Sự Sống. Và Chúa đã nói:
“Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái.” Ở lại với Chúa thì được đời sống, sống sung mãn, sống vĩnh hằng, tách lìa Chúa thì phải hư vong. Thiên Chúa là tình yêu tạo dựng và cứu chuộc. Chúng ta là các con của Ngài đều là chứng nhân của ơn cứu chuộc, chúng ta được hòa giải với Đức Chúa Trời, được Thánh hóa nên cùng loan truyền Tin Mừng khắp nơi. Chúa đã nói:
“Bất cứ ơn kêu gọi của một người là gì, thì ân sủng cũng được ban cho đủ để ơn kêu gọi ấy sẽ được hoàn tất.”
Ngày nay nhân loại vẫn còn khao khát, còn tìm kiếm Chúa Cứu Thế nên việc rao giảng Tin Mừng sẽ còn tiếp nối qua nhiều thế hệ sau này.
“Các ngươi đừng quá lo lắng về thân xác mình, song hãy lo tìm kiếm Thiên Chúa cùng sự công chính, và rồi những thứ khác sẽ được ban thêm cho các ngươi.” (Mt 6:33)
Tìm kiếm nước Thiên Chúa chính là sống trong công bình, bác ái, yêu thương, phục vụ, san sẽ luôn có sự bình anh và nguồn vui chân thật, không còn lo âu sợ hãi.
“Trong Ngài chúng ta được ơn cứu độ, được tha thứ tội lỗi theo sự phong phú ân sủng, Ngài đổ xuống trên chúng ta.” (Eph 1,7-8)
Thiên Chúa rất yêu thương loài người và mong muốn:
“Cho mọi người được cứu độ và nhận biềt chân lý.” (1 Tm 2:4)
Nhưng nếu con người không cộng tác với Chúa trong ơn cứu độ này thì Chúa không thể cứu ai được. Ngài không ép buộc ai phải yêu mến Ngài và nhận ơn cứu độ. Ngài chỉ mời gọi chúng ta, chúng ta phải nên đón nhận và kết hợp với Ngài.
Sau đây là câu chuyện của Cô bé Akiane, tôi xin được ghi lại, vì cô bé là nhân chứng đã thấy được Nước Trời trên Thiên Đàng.
Akiane Kramarik sanh ngày 7 tháng 9, 1994 tại Illinois (USA), nhưng đã từng theo gia đình di chuyển qua các tiểu bang Missouri, Colorado, Idaho. Ba cô bé là người gốc Nga, người Công Giáo nhưng không giữ đạo. Mẹ gốc người Lithuana, là một người vô thần, không tin có Thiên Chúa.
Chính cô bé cho biết “Gia đình con không có gì liên quan tới Thiên Chúa cả, không ai biết cầu nguyện hay đi nhà thờ bao giờ.” Lúc cô bé lên 4 tuổi thì một chuyện lạ xảy ra. Tự nhiên xuất hiện trong tâm trí bé chữ Thiên Chúa mà chưa bao giờ bé nghe biết bởi bất cứ nguồn nào.
Bé kể lại: “Con bắt đầu tìm hiểu xem chữ đó có nghĩa gì hay là ai. Con thấy chữ đó thật kỳ diệu và quyền năng. Thì chính hôm sau con được gặp Chúa. Ngài chỉ cho con thấy Thiên Đàng. Thiên Đàng đẹp lắm, và Chúa bắt đầu nói chuyện với con, về những chuyện tương lai đời con và gia đình con. Và con biết được rằng Đấng thần thiêng này thật vĩ đại nên con đã muốn nói cho người ta biết về việc này. Và Chúa bắt đầu dạy con vẽ. Chúa cho con ơn vẽ tranh nghệ thuật. Và với số tiền bán tranh do con vẽ, con sẽ giúp người nghèo đói, cũng như các trẻ em trên thế gìới.”
Trong thời gian gia đình chuyển tới tiểu bang Missouri, thì một hôm tự nhiên cả nhà náo loạn kinh hoàng vì bé Akiane bỗng dưng biến mất. Bà mẹ hốt hoảng đã gọi cảnh sát, FBI… và người ta đã huy động lính tráng đủ loại để đi tìm bé. Đây là lần bé được bàn tay Chúa nhấc lên, đưa lên Thiên Đàng.
“Trên đó con thấy nhiều thứ lắm, như là đi vào thường hằng. Mà con chỉ tả được 1 phần triệu thôi. Cảnh trí, thác nước tuyệt vời không có trên trái đất. Có nhiều màu sắc chúng ta chưa đến. Chúng ta chỉ có màu xanh, màu hồng, màu đen,….các màu ở Thiên Đàng thì khác hoàn toàn, rất tươi sáng và tương phản. Hoa thì đẹp lắm, trong sáng như pha lê…, con được đưa lên Trời chỉ có vài giờ thôi, mà có cảm tưởng như cả đời ở đó rồi. Mấy giờ đó con thật sự biến mất. Đang khi mọi người hốt hoảng tìm con thì một chỗ mở ra nơi cửa và con bước ra. Mẹ con không tin nổi là con đang bước tới. Mẹ nhìn con sửng sốt và oà khóc. “Từ nãy đến giờ con đi đâu?” Con nói: “Con ở một chỗ nào đó mà sao mẹ tìm con làm gì.” Con thấy toàn là cảnh sát và binh lính không à. “Mẹ à, con chỉ đi có vài giờ thôi mà. Con ở với Chúa trên Thiên Đàng, có gì mà ghê gớm vậy!” Lúc đó mẹ con cũng chưa tin nổi. Bà chưa muốn tin. Nhưng rồi bà bắt đầu kể những chuyện này….
Cô bé Akiane kể tiếp: “Con đã gặp Chúa, và thấy Chúa là Ánh Sáng, nồng ấm và tốt lành (God is Light, warm and good). Ngài biết mọi sự và nói chuyện với con như một nguời cha. Lần đầu tiên gặp, Ngài sáng như mặt trời, nhưng con nhìn mà không bị lóa mắt. Và sau này khi lớn hơn lên, hình thể Ngài cũng rõ dần, rõ dần. Khi con lớn hơn nữa, Ngài tỏ cho con thấy rõ hơn nữa. Mỗi lần nhìn Ngài, con lại được thêm thần hứng sáng tác. Đôi mắt Ngài chỉ dẫn, con vẽ và luôn tạo cảm hứng. Hình dáng Chúa đầy ánh sáng. Con thấy mắt Ngài thật huyền năng tuyệt vời.” Có người xin bé kể lại giấc mơ này. Bé trả lời: “Đó không phải là mơ, mà là thật.” Bây giờ thì cả gia đình của bé yêu Chúa lắm, cùng đi lễ, biết cầu nguyện. Khi cô bé lên tám tuổi thì Chúa cho cô bé một tài năng khác nữa là làm thơ. Những ý tưởng cứ trào ra trong đầu bé viết ra không kịp, cô bé nói: “Con mới có 8 tuổi nên viết mỏi tay lắm. Anh con và mẹ con viết nhanh nên đã giúp con ghi lại những vần thơ đó. Có nhiều ý tưởng con đâu có hiểu, chẳng hạn về những hình ảnh mà sau này một số khoa học gia hỏi con thì con nói con cũng đâu biết, con chỉ viết nó ra thôi. Có muốn gọi con là nhà thơ thì con cũng biết vậy thôi. Nhiều khi con đọc chính thơ của mình mà như là đọc sách của người khác vậy. Con làm nhiều bài thơ cho những bức tranh của con , diễn thêm ý ẩn đằng sau những bức tranh vẽ. Con cố giải thích nhưng chỉ được 10% điều con hiểu thôi. Thiệt khó giải nghĩa lắm!”
Chuyện của cô bé đã đánh động nhiều người kéo theo sự chú ý từ nhiều phía. Lúc 10 tuổi, bé đã được mời lên chương trình Oprah, ABC, CBS, FOX và 11 tuổi thì đài CNN. Từ lúc 6 tuổi, những bức tranh đầu tiên của cô bé người ta đã mua với giá 10 ngàn dollars, rồi những bức tranh kế tiếp là 25 ngàn, 55 ngàn và bây giờ ít nhất cũng từ 100 ngàn tới 1 triệu đô. Tiền vẽ tranh, cô bé dành cho việc từ thiện, trẻ em nghèo đói trên thế giới.
Cô bé Akiane đã gặp được Chúa Giêsu trên Thìên Đàng, đã gặp Ánh Sáng và được soi sáng. Cô bé đã diễn tả lại những gì đã thấy và cô bé đã cảm nghiệm như một thực chứng qua trực giác của cô bằng những bức tranh, những bài thơ. Cửa Thiên Đàng đang mở ra, ở dưới đất cũng như trên trời, cung điện ngợp Vinh Quang đây rồi, ánh sáng sự sống và ánh sáng tình thương của Chúa Cứu Thế đang bùng phát lan tỏa, choàng ngợp hào quang, đang tuôn trào mãnh liệt khắp hang cùng ngõ hẻm tối tăm trên thế gian này.
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nổi đã ban Con Một của Người để ai tin vào con của người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời…Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm điều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Những kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng để thiên hạ cùng thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.” (Gioan 3:16, 19-21)
Chúng ta là con của Ngài, đều là chứng nhân của ơn cứu chuộc và tiếp tục công việc rao giảng Tin Mừng để hoàn tất Nước Trời tại thế gian. Chúa đã phục sinh và đang sống trong chúng ta, thần khí Ngài tác động biến đổi mỗi người một cách khác nhau và ai tin và thấy được như vậy sẽ sống lại thành con người mới, sống thánh thiện theo hướng dẫn của Chúa, lấy lại được sinh khí và sự bình an và cùng chia sẽ cho nhau, dù ngôn ngữ bất đồng, khác nhau về phong tục tập quán, màu da, v…v…, nhưng sự bình an mà Chúa đã ban cho là trạng thái tâm hồn an hòa, thư thái, vui tươi, yêu thương và tha thứ đều giống nhau cả. Lời Chúa Cứu Thế quả là có sức hồi sinh.
Tôi xin ghi chép lại bài thơ: “Chúa và Tha Nhân”, sau đây để chúng ta thấy rõ Nước Trời tại thế gian này là: Một là tất cả, Tất Cả là một, cùng một lực sống không thể tách rời ra được hay tận diệt được mà là vĩnh hằng, mặt này hổ trợ cho mặt kia, cùng chan hòa trong tình yêu thương và sự quan phòng kỳ diệu của Đức Chúa Trời. Ngài là “Đấng Hằng Hữu”, không có khởi đầu và cũng chẳng có cùng tận.
Người mang danh Thánh: “Ta là Đấng Hằng Hữu” (Ga 8,28)
Nên chúng ta không còn lo âu sợ hãi nữa và luôn đặt hết niềm tin yêu và phó thác vào Ngài.
Chúa thiêng liêng ta không thấy được
Nhưng tha nhân sẵn trước mắt ta,
Như lời Chúa đã dạy xưa
“Tha nhân chính là Thầy đó.”
Thế gặp Chúa không gì là khó.
Chân lý này đã rõ mười mươi:
Yêu tha nhân là yêu Chúa thật rồi
Giúp tha nhân là giúp chính Ngài
Tha nhân gặp mọi ngày,
Tha nhân gặp khắp nơi,
Người yêu, người bạn đời
Người họ hàng thân thuộc,
Người hàng xóm cạnh tôi,
Người bạn học cùng trường,
Người công nhân cùng sở,
Người đốc công, ông chủ,
Người bịnh trong nhà thương,
Người đi chung xe buýt,
Người tôi gặp trên đường,
Tha nhân rủi vấp ngã,
Tha nhân gánh nhọc nhằn,
Tha nhân đang lạnh giá,
Tha nhân thiếu chiếu chăn,
Tha nhân đời vất vả,
Tha nhân gặp khó khăn,
Tha nhân càng đói khổ,
Càng giống Chúa Kitô!!!
Xin Chúa cho con thấy
Chúa trong chính tha nhân
Để ở xa hay gần,
Con luôn yêu kính trọng,
Và giúp đở ủi an.
J.H.Ch
Chúa Cứu Thế tự hòa đồng mình với tha nhân trước mắt chúng ta, chúng ta được thấy và được nghe hằng ngày tiếng nói của Ngài, nên những gì chúng ta phục vụ cho tha nhân chính là làm cho Ngài.
Sám hối và cầu nguyện có sức mạnh giải thoát, là phương thế tuyệt hảo để được cứu rỗi, để đón nhận ân sủng và quyền năng của Thiên Chúa. Trong cuộc đời của mỗi chúng ta ít nhất cũng được một lần hay nhiều lần cảm nhận bàn tay của Chúa đã nâng đở, đã xoa dịu, cứu giúp ta qua khỏi nạn tai như: chữa lành những bịnh nan y, thiên tai, nhà cháy, xe cộ, v…v…, cũng nhờ đức tin và cầu nguyện.
Với riêng tôi, việc cầu nguyện là cội nguồn của mọi sinh hoạt, được kết hợp với Cha để tìm thánh ý, tìm được sự hướng dẫn sáng suốt trong tâm hồn lắng động bình yên. Cầu nguyện là từ bỏ cái ảo để tiếp nhận cái thật, từ bỏ cái tạm thời để tiếp nhận cái trường cữu, hằng ngày tôi cầu nguyện cho thế giới mọi người luôn sống trong đức tin là khởi nguồn cho sự quay về nguồn cội, về đời sống tâm linh để biết mình là ai? tìm ra chân lý, tìm ra sự thật, đó là Đạo, tức là con đường dẫn đến sự thật, sự sống đích thực giúp ta biết sống, biết yêu thương và tha thứ. Thiên Chúa là chính chân lý.
Ngài là “Ánh Sáng, nơi Ngài không có một chút bóng tối nào.” (1 Ga 1,5)
Con vĩnh cửu của Thiên Chúa, là sự Khôn Ngoan nhập thể, đã được sai đi vào thế gian “đễ làm chứng cho sự thật” (Ga 18,37)
Một khi mọi người đã thấy rõ sự thật và cùng quay về nguồn cội là Cha chúng ta ở trên trời thì chữ Đạo không còn nữa, như thuở mới khai thiên lập địa, vì không còn sự phân biệt, không còn sự chia rẻ, không còn hận thù vì tất cả là anh em một nhà và cùng một Cha, đó là Đức Chúa Trời.
“Phúc cho những ai yêu chuộng Hòa Bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa!”
(Mat-thêu 5:9)
Chúng ta có thể thật sự nói về Thiên Chúa, dựa vào những nét hoàn hảo thiên hình vạn trạng của các thụ tạo, phần nào giống Thiên Chúa hoàn hảo vô biên, cho dù ngôn ngữ có hạn của chúng ta không tài nào diễn tả hết mầu nhiệm được. Và “không có Đấng Sáng Tạo, loài thụ tạo biến tan.” (Hiến chế về Mục Vụ của Cộng Đồng Vaticanô II số 36.)
Trong Kinh Tin Kính, chúng ta cầu nguyện:
“Tôi tin kính một Thiên Chúa, là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình...”
Vì thế người tín hữu hay dân Chúa cảm thấy tình yêu Chúa Giêsu thúc bách mang ánh sáng của Thiên Chúa hằng sống đến cho những ai không biết Người hoặc là từ chối Người. Đức Chúa Cứu Thế là “Đấng trung gian và sự viên mãn của toàn bộ mặc khải.” Ngôi lời duy nhất và hoàn hảo xuất hiện, sẽ không có lời nào khác nữa. Ngài chính là giao ước mới và vĩnh cửu, người con chí ái và Con một của Đúc Chúa Trời.
Tôi viết cuốn sách này để tạ ơn Chúa, một đứa con thọ ơn, được nhiều hồng ân, hồng phúc Chúa ban cho. Cuốn sách này được hoàn tất là do tôi góp nhặt, đúc kết và ghi chép lại những lời Chúa dạy dỗ lúc Ngài còn sống, của các vị Thánh Tông Đồ trong Thánh Kinh, những dòng tư tưởng được sự linh hứng của Chúa Thánh Thần xuất phát từ tiếng nói của vị chủ chăn trong hàng Giáo Phẩm, các tín hữu viết trong sách báo đạo đức…, cùng một hướng đi, cùng một mục đích là rao giảng Tin Mừng về Chúa Phục Sinh để Nước Trời tại thế gian càng ngày càng mở rộng và hiện rõ ra hơn, không còn là ảo mộng hay huyển hóa, mà là Sự Thật, Có Thật ngay trước mắt chúng ta.
Câu chuyện cùa cô bé Akiane thấy được Nước Trời trên Thiên Đàng và được gặp Chúa, và câu chuyện về cuộc đời của tôi, tôi được Chúa Giêsu mở mắt thấy được Nước Trời tại đây, cả hai đều là nhân chứng và không chỉ riêng chúng tôi mà còn hơn 1/3 nhân loại trên quả đất này là con dân của Chúa để cùng chứng minh là Đức Chúa Trời CÓ THẬT.
Từ niềm tin đó, chúng ta luôn luôn cám ơn Ngài ơn tạo dựng và ơn cứu chuộc. Đức Chúa Trời là toàn năng, là trung tâm điểm của cuộc sống.
“Thiên Chúa không có phép có sự dữ xẩy ra, nếu Người không rút sự lành từ chính sự dữ.” (lời nói cùa Thánh Phaolô)
Vì vậy chúng ta sẽ thấy những vấn đề quanh ta hằng ngày đã gây cho chúng ta ít nhiều phiền não nếu có xảy ra cũng quá bé nhỏ so với bao nhiêu hồng ân lớn lao mà Chúa đã ban cho, nhất là món quà của sự sống vĩnh cữu bất diệt như Cố Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói:
“Hãy nhìn bao la vũ trụ mà Đấng Tạo Hóa tạo nên so sánh với những phiền muộn nhỏ bé của mình, thật chẳng thấm vào đâu.”
Nhờ cảm thức siêu nhiên về Đức Tin, toàn thể dân Chúa không ngừng đón nhận, đào sâu, và sống hồng ân mặc khải ngày càng trọn vẹn hơn. Hãy sống mãnh liệt, sống cho đẹp nhất và hữu ích nhất trong tất cả mọi ngày, đáng sống cho ơn gọi của đời mình trong niềm bình an nội tâm, mỗi ngày thức dậy là một ngày hoàn toàn mới.
Lời cuối là lời cám ơn chân thành của tôi đến với tất cả mọi người và bạn bè, gia đình thân thuộc đã giúp tôi hoàn tất và phổ biến cuốn sách này.
Sau đây là lời nhắn nhủ của tôi cũng là ý chính, là trọng tâm của quyển sách này.
Chúa Giêsu đã nói:
“Tôi là ÁNH SÁNG THẾ GIAN. Ai theo tôi sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được sự sáng, đem lại SỰ SỐNG.” (Gioan 8:12)
Và Chúa Giêsu cũng đã nói:
“Bây giờ ta cho các ngươi lựa chọn giữa sự sống và sự chết….Và TRỜI ĐẤT sẽ chứng kiến sự lựa chọn của các ngươi.
“HÃY CHỌN SỰ SỐNG!!!”
(Deuteronomy 30:19)
New York, tháng 5, 2009
Nguyễn Thị Thân
=============
Bạn có lời chứng cho Chúa muốn phổ bién, xin gởi về: [email protected]. Xin viết tựa đề (subject) Lam Chung Cho Chua. Cám ơn.
- Canh Tân Đặc Sủng: