Home
Printer-friendly versionSend by email
-A A +A

Bài Lời Chúa 035

Tác giả: 
Lm Hoàng Minh Tuấn

 

 

BÀI LỜI CHÚA  35

 

Điều răn thứ sáu và  thứ chín : chớ dâm dục

 

Trích sách Khởi Nguyên, ch.2

 

Vào ngày Thiên Chúa làm ra đất và trời... Yavê Thiên Chúa đã nắn hình người với bụi đất lấy tự đất đai, Ngài đã hà hơi sống vào mũi nó và nó đã thành một người sống. Thiên Chúa đã trồng vườn cây ở Ê-đen, rồi đặt con người vào trong đó để canh tác và giữ vườn. Trong vườn ấy, Thiên Chúa cho mọc lên mọi thứ cây coi sướng mắt và quả thì ăn ngon lành, lại có cây sự sống ở giữa vườn cùng cây biết tốt xấu. Trong vườn lại có những con sông phù sa phì nhiêu chảy qua.

 

Yavê Thiên Chúa phán :

 

-    Nếu người ta chỉ có một mình, điều ấy không tốt. Ta sẽ làm cho nó cái gì trợ giúp tương xứng với nó.

 

Và Yavê Thiên Chúa đã nắn ra từ đất đai mọi thứ dã thú, mọi giống chim trời, rồi Ngài dẫn chúng đến cho con người, xem nó gọi làm sao, thì tên chúng là vậy. Con người đã đặt tên cho mọi giống súc vật ấy. Nhưng còn phần riêng họ, họ vẫn không gặp được người trợ giúp tương xứng nào. Và Thiên Chúa đã giáng xuống trên con người một giấc ngủ kỳ lạ, rồi Ngài đã rút lấy một xương sườn của nó, đoạn lắp thịt vào. Và trên sườn đã rút tự con người, Thiên Chúa đã làm thành người đàn bà. Đoạn Ngài dẫn đến với con người. Thoạt thấy nàng, nó kêu lên sung sướng :

 

-    Phen này, nàng là xương tự xương tôi, thịt tự thịt tôi. Nàng sẽ mang danh là “đàn bà”, vì đã được rút từ đàn ông.

 

Bởi thế, đàn ông sẽ rời bỏ cha mẹ mà khắng khít với vợ mình, và chúng sẽ nên một thân xác.

 

*    Đó là Lời Chúa ! - Tạ ơn Chúa !

 

 

Suy niệm Lời Chúa

 

Với bài Lời Chúa hôm nay, ta bắt đầu học về điều răn thứ sáu. Nhưng ngay đây, xin đặc biệt lưu ý một điều : trong vấn đề quan trọng chừng này của cuộc đời con người - vấn đề nam nữ - ta đừng chỉ chăm chú hỏi xem sự gì cấm, sự gì cho phép, tức là chỉ chú ý đến giới răn, điều luật. Tất cả chúng ta, từ trẻ đến lớn, để là Kitô hữu sau Công Đồng Vatican 2, phải có một lối nhìn đổi mới, phải “đổi mới tư duy” - như ngày nay người ta thường nói - phải có một cái nhìn sâu xa, rộng lớn hơn phạm vi giới răn, điều luật ; phải có một thái độ Kitô giáo chân chính, đúng đắn như Kinh Thánh dạy và Công Đồng hướng dẫn.

 

Muốn được như thế, phải học hỏi nhờ Kinh Thánh và sự hướng dẫn của Công Đồng, để biết được ý muốn của Thiên Chúa thế nào, khi Ngài tạo dựng nên loài người có nam có nữ. Phải học hỏi, phải dùi mài cho đến kỳ nhập tâm, trở thành thói quen, thành nếp sống, thành thái độ, cử chỉ bình thường trong đời sống mình.

 

Những điều sẽ nói đây, có lẽ chẳng có chi mới lạ, nhưng điều cần là nhắc lại, “ôn cố nhi tri tân” để nhập tâm.

 

1/ Người khác phái không phải là mối nguy hiểm :

 

Ta vừa nghe đọc Lời Chúa trong sách Khởi Nguyên, điều đầu tiên Chúa dạy không phải là bổn phận bảo vệ nhân đức trong sạch. Kỳ cục thật ! Cứ nghe nói đến điều răn thứ sáu và thứ chín, là tức khắc người ta nghĩ ngay đến cấm đoán : Chớ làm cái này ! Đừng làm cái kia !... Trong bài Kinh Thánh vừa đọc, ta thấy trái lại : Chúa nói chuyện yêu đương. Chúa cưới vợ cho ông Ađam. Ông Ađam thấy vợ, sướng quá, ca lên, hát lên lòng biết ơn và hạnh phúc có được một người bạn đời. Rồi Kinh Thánh nhẹ nhàng nói đến chuyện họ kết hợp với nhau khắng khít, quí nhau, cần nhau, đến nỗi bỏ cả cha lẫn mẹ mà quấn quít lấy nhau, thành một thân thể :

 

“Mình với ta xưa hai nay một !”

 

Một bản văn Kinh Thánh khác bổ cứu thêm : Thiên Chúa chúc lành cho tình yêu vợ chồng ấy và bảo : “Hãy yêu nhau nhiều vào, để sinh con đẻ cái đầy đàn đầy đống, ngõ hầu bá chủ trên hành tinh này, cùng muôn vật trên vũ trụ”. Đoạn Thiên Chúa khoanh tay nghỉ việc, Ngài ung dung vuốt râu, sung sướng vì đã thành công trong việc tạo dựng. Ngài thấy nó đẹp quá, tốt quá, không chê vào đâu được. Có thể nói, nếu Ngài không tạo dựng, chắc Ngài không được hạnh phúc như vậy. Tạo dựng thành công, tốt đẹp, Ngài như thêm vinh quang và hạnh phúc.

 

Trong cảnh tả trên, không có gì là cấm kỵ. Vì thế, Thiên Chúa dựng nên nam nữ, trước hết không phải để cấm trai gái, nam nữ yêu nhau, không phải để cấm nhìn, cấm nghĩ đến nọ kia. Vì trong viễn tượng cấm kỵ, người khác phái sẽ bị coi là một mối nguy hiểm cho ta. Và nếu họ tự nhiên hấp dẫn ta - hấp dẫn cách thú vị là đàng khác - họ lại vẫn là một vật mà ta cứ phải tránh lánh, trước họ, ta phải đề phòng như một nguy cơ cho bản thân. Nhiều lần, ta còn nghe nói độc địa thế này : Đàn bà là quỉ Satan cám dỗ đàn ông ! Một câu nói, xét cho cùng, không có tinh thần Chúa Kitô .

 

Do một cách dạy đạo từ xưa quá tiêu cực, chỉ nhằm bảo vệ đức trong sạch tư riêng cá nhân về điều răn thứ sáu và thứ chín (chớ dâm dục, chớ muốn vợ chồng người), nên ta luôn ở vào thế phòng thủ, bảo vệ. Đành rằng điều ấy không hoàn toàn sai hay phải bỏ đi đâu. Không ! Song người ta quên nhắm đến mặt tích cực, là sự đánh giá người phái kia, và tôn trọng họ đúng phẩm giá, chức vị và khả năng của họ, như Kinh Thánh dạy. Nếu ta có cái nhìn tích cực nói đây, việc tuân giữ hai giới răn 6 và 9 sẽ trở thành một việc của lòng yêu thương: ta yêu mến, tôn trọng Chúa và trật tự Chúa đặt ra về vấn đề nam nữ, và ta yêu mến người khác phái, tôn trọng, kính nể họ : đó là ta thi hành đức bác ái rồi vậy.

 

Xin lưu ý : Cái lối nhìn tích cực và cởi mở này không phải là cấp tiến, hoặc thích bày điều mới lạ. Đúng hơn là do Giáo Hội ngày nay trở về với Kinh Thánh, mà rút ra từ Lời Chúa dạy đó thôi.

 

2/ Con người một mình thì thiếu thốn, nghèo nàn :

 

Lời Chúa dạy cho ta biết ý muốn của Chúa về vấn đề này như sau :

 

“Con người chỉ có một mình là điều không tốt”, tức là không đầy đủ, hoàn toàn. Dựng cho con người một vườn địa đàng, đủ mọi hoa thơm, quả lạ, đầy muông chim, cầm thú, Thiên Chúa thấy họ vẫn chưa hạnh phúc, vẫn thiếu một cái gì sâu xa trong bản thân họ. Nói trắng ra, họ cần có ai khác làm bầu bạn và trợ giúp. Thấu tim đen của họ, Thiên Chúa mới nói : “Thôi được ! Ta sẽ làm cho nó một người trợ giúp tương xứng với nó”. Rồi Thiên Chúa giáng xuống cho con người một giấc ngủ kỳ lạ, có ý nói, con người không thấy được việc Chúa làm. Đối với Ađam, việc Chúa sắp làm đây là một mầu nhiệm : Chúa lấy một xương sườn mà làm thành người đàn bà. Tích lấy xương sườn này phải hiểu theo nghĩa bóng, tức là người đàn bà có đồng bản tính nhân loại, bình quyền, và đồng chức vị như đàn ông. Cho nên, khi thấy Eva, Ađam kêu lên : “Phen này, nàng là xương tự xương tôi, thịt tự thịt tôi !”. Viết điều ấy, Thánh Kinh có ý dạy cho các dân tộc bán khai : đừng nên coi đàn bà như vật thấp hèn, rẻ rúng. Cách đây không lâu, có dân còn cho là đàn bà không có linh hồn, như đồ chơi của đàn ông. Và trong những nước vùng Á Đông như Trung Hoa, Việt Nam... các ông tậu hàng tá vợ, nàng hầu, cứ có tiền là bao nhiêu cũng được : phụ nữ bị coi rẻ mạt. Chỉ cần nhớ đến các vua thời xưa có tam cung, lục viện chứa hàng trăm, hàng ngàn cung nữ, cung phi. Vậy không nên hiểu tích xương sườn như thể Thiên Chúa lấy của ông Ađam, làm cho đàn ông bây giờ có xương sườn cụt. Hiểu theo nghĩa đen như thế, đã đưa đến câu chuyện “tếu” sau đây : Có bà vợ kia, quá ghen tuông, đem nào cũng sờ nắn xương sườn chồng, xem có cụt thêm cái nào nữa không, sợ rằng cứ cụt thêm một cái là ông lại có thêm một bà !

 

Từ xương sườn, Thiên Chúa nắn thành người đàn bà. Chúa không nắn thêm một đàn ông thứ hai, một người đồng chí, một người anh em, nhưng là một người đàn bà, phái nữ, để bổ túc cho ông. Đó chính là cái ông thiếu. Vậy ra, đàn ông không đầy đủ, ông thiếu thốn sâu xa. Thiên Chúa đem đến cho ông một bổ túc cho bản thân, cho cuộc đời ông. Muốn bổ túc, đàn bà phải khác : khác tài, khác tâm lý, khác tính tình, khác vóc dáng, khác năng khiếu... Nhưng bổ túc ấy phải tương xứng, tức là đồng bản tính nhân loại, đồng chức vị, đồng quyền. Các cầm thú không tương xứng, vật chất ăn ngon, mặc đẹp, âm nhạc, hội họa... cũng không tương xứng, nên không bổ túc cho bản thân ông được.

 

Được vợ rồi, từ đó, hai người quấn quít nhau, kết hợp với nhau : cả hai hợp lại mới thật thành người toàn vẹn, đầy đủ.

 

3/  Kết luận từ đó thế nào ? Rút bài học gì cụ thể ?

 

     a/  Nếu Thiên Chúa đã dựng nên con người tự bản chất - bên nam cũng như bên nữ - là thiếu thốn, là bất toàn và cần phải có người kia bổ túc, vậy thì điều trước hết là ta phải nhận mình cần người kia. “Con người một mình là không tốt”.

 

     b/  Càng thấy cần, càng phải quí. Nếu trên mặt bản thân, không gì quí hơn người khác phái. Đó là cả một kho tàng phải quí, phải tôn trọng, vì quà tặng đó của Thiên Chúa. Nếu mỗi bên đều nhìn bên kia với con mắt thán phục, quí trọng, kính vì, thì cuộc đời sẽ đẹp biết bao ! Người nữ sẽ nhìn nhận nơi người nam sự khỏe mạnh, giàu nghị lực, làm rường cột, làm người cầm cân nảy mực, có trí óc minh mẫn, thực tế, để điều khiển và tổ chức gia đình, xã hội, nơi nương tựa cho chị em trong những lúc hoạn nạn, sầu đau. Người nam sẽ nhìn sang người nữ với lòng thán phục, vì trong họ chất chứa cả một kho tàng phong phú tình yêu, đầy hiền từ, nhẫn nại, chịu khó, dịu dàng, mềm mại, dễ thương, dễ mến. Chẳng phải phụ nữ là biểu tượng của tình yêu sao ?

 

Ông M. bị vợ giận bỏ đi, lần này là lần thứ ba, chỉ vì ông đã nghèo mà còn nóng tính. Biết lỗi, lần này, ông lại đi van xin vợ trở về nhà. Thấy ông có vẻ quá quị lụy bà vợ, hàng xóm cho ông là hèn nhát. Ông đáp lại một câu thật cảm động và có ý nghĩa :

 

-    Tôi phải quị lụy, nhún nhường tìm vợ tôi về, để có người mẹ, con cái tôi có được tình âu yếm.

 

Thì ra, ông nhận rằng : chỉ có người đàn bà mới có thể đem lại tình thương, và âu yếm là món ătâm thần cần thiết cho con cái ông, mà ông không có được.

 

Cứ tưởng tượng thế giới này sẽ ra sao, nếu không có phụ nữ ? Chắc chắn sẽ buồn tẻ và không còn nhân đạo, chỉ toàn tranh giành, xô xát khốc liệt. Văn chương, thi phú, ca nhạc chẳng còn hứng nữa, sẽ biến mất. Nhà cửa bừa bãi, dơ bẩn, ngập rác rưởi do tính lười biếng của đàn ông... Còn sự gì sẽ xảy đến, nếu thế giới này không có đàn ông ? Các bà sẽ chẳng còn cái sung sướng tay bồng tay bế, hôn hít, chắt chiu... Thế giới sẽ vô tổ chức, vô trật tự, vì không còn luật lệ gì cả, tất cả sẽ tùm lum, tà la, rối rít tít mù, không biết đâu mà rờ. Người ta thường nói giỡn : Ba bà với vài con vịt đủ thành cái chợ. Thì lúc ấy, cả thế giới đàn bà sẽ om xòm như một cái chợ vĩ đại.

 

Còn trong gia đình, nếu thiếu đi người cha hoặc người mẹ, như những trường hợp ly thân, ly dị, gia đình ấy sẽ ra sao ? Kinh nghiệm đã cho thấy rõ : thật là bất hạnh ! Tội nghiệp cho mấy đứa trẻ ! Ở với cha thì mất mẹ. Ở với mẹ thì thiếu cha.

 

     c/  Thực tế, đàn ông sẽ không cậy vào sức mạnh mà khinh bỉ hạng liễu yếu đào tơ. Phụ nữ không đâm tự ti mặc cảm mà coi mình thấp hèn. Đàn ông mà khinh bỉ phụ nữ, người ấy tỏ ra còn trẻ con, chưa trưởng thành, chưa xứng mặt trượng phu. Đàn ông, con trai cậy sức mạnh, đánh đập, lấn át phụ nữ, đó là một kẻ mọi rợ, vũ phu ! Các dân văn minh luôn tôn trọng phụ nữ ! Các ông chồng hãy nghe lời Kinh Thánh dạy :

 

“Anh em là chồng, thì phải biết điều mà sống cảnh gia thất với vợ, hợp với thân phận mỏng giòn, chiếu theo nữ tính của họ. Đối với họ phải kính vì, như những kẻ đồng thừa hưởng cơ nghiệp sự sống đời đời” (1Pr 3.7).

 

Người đời cũng thường nói : “Không nên đánh vợ, cho dù bằng một cành hoa hồng”.

 

     đ/  Ngay từ nhỏ, tập cho con cái biết tôn trọng nhau, nhất là con trai. Phụ huynh đừng nói điều gì, đừng làm hành vi nào tỏ vẻ khinh bỉ đàn bà, con gái. Tập cho mình, cũng như cho con cái biết cách biểu lộ sự tôn trọng ra bên ngoài bằng các cử chỉ, lời ăn, tiếng nói : những cử chỉ lịch sự (chẳng hạn nhường chỗ cho phụ nữ), ăn nói nhã nhặn, thái độ đứng đắn, giúp đỡ nhau tùy khả năng, sức lực (chẳng hạn con trai, đàn ông đảm nhiệm các việc nặng nề. Sức lực của nam giới là để bảo vệ phụ nữ và tránh cho họ những việc nặng nhọc). Những điều nói đây, ai cũng biết cả, nhưng lại không thực hành. Lý do một phần là người Việt ta, dù đạo công giáo, song vì lâu đời thâm nhiễm tinh thần Nho giáo : trọng nam khinh nữ (nam viết hữu, nữ viết vô), cho nên có thái độ khinh rẻ phụ nữ. Nào là : “Bà câm đi ! Đàn bà biết gì mà nói !” - hoặc : “Cút xuống bếp đi cho rảnh!” - hoặc : “Đồ con gái, động tí là khóc nhè !”. Chúng ta là Kitô hữu, phải sống theo Chúa Kitô dạy, chứ không theo Khổng Tử dạy. Đừng sợ rằng tôn trọng, nhường nhịn phụ nữ là nịnh đầm, thấy mắc cở, nhục nhã.

 

2/  Sau nữa, tập biết hợp tác với nhau trong mọi lãnh vực : gia đình, đoàn thể, xã hội... Hãy xem một bác sĩ cũng cần có người trợ tá, nữ y tá... Vì sao ngày nay các bà, các cô ra ứng cử hội đồng, chen chân vào các tổ chức xã hội, ngay cả làm thủ tướng ? Bởi vì, tuy người nam có tài tổ chức, khéo điều khiển bộ máy, song phụ nữ thấy nhiều điều tinh tế mà nam nhân không thấy. Như thế là bổ túc cho nhau. Do đó, ngay trong gia đình, từ nhỏ, hãy tập cho có sự hợp tác ấy. Phân công cho con trai, con gái là một chuyện, khuyến khích hợp tác mới mỹ mãn. Người lớn cứ nghĩ lại mà xem, chẳng phải thường thường trong gia đình, ta luôn đề cao con trai, hạ thấp hay coi thường con gái ? Con trai thì thế nào cũng được, con gái thì bị kèn cựa từng li từng tí, nhân danh một tục lệ lỗi thời : “Ngày xưa, khi tao còn con gái, còn nết na, nề nếp, khép nép hơn mày bây giờ nhiều”. Đành rằng phận gái phải kín đáo, nết na, giữ gìn hơn, điều đó rất đúng và vẫn luôn đúng ; song gò bó, đóng kín và thụ động như xưa là không còn hợp thời và hợp lý nữa. Cho nên phải đề cao khả năng và giá trị cả hai bên, tuy mỗi bên một khác, phải khai thác và phát triển năng khiếu, tính tình, đức tính của hai bên. Một gia đình sẽ đầy sinh lực, sẽ phong phú cũng là nhờ biết làm chủ như thế ; một xã hội sẽ giàu mạnh, tiến bộ và văn minh cũng nhờ đó phần lớn.

 

Gia đình ta đọc kinh đền tạ và cũng xin Chúa giúp sức thực hành bài Chúa dạy hôm nay.